Ba ngay luan dao - 03

BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with Unicode Times font


Ba Ngày Luận Ðạo
Maha Thong Kham Medhivongs

PL. 2506 - TL. 1963
Tái bản: PL. 2539 - TL. 1996


  

[03]

Vấn: Bạch Ngài, tại sao pháp hành mà còn có pháp hành hữu thức và vô thức?

Ðáp: Pháp hành ý nói là sự tạo tác, như chúng ta là người có thức tánh, thì chúng ta biết cử động là đi, đứng v.v... và làm những điều thiện hay ác do nơi thức tánh của chúng ta. Còn như cây, đá, gió lửa v.v... nó cũng tùy theo trường hợp mà sanh ra không ngừng nghỉ, nhưng nó không biết nó đang làm gì và kết quả đi tới đâu. Nên gọi là pháp hành vô thức, ý nói sự hành động không có thức tánh.

Vấn: Bạch Ngài, tôi chưa thông đạt được bốn pháp nhân sanh ra pháp hành, xin Ngài vui lòng giải rõ.

Ðáp: Vô minh là nhân không hiểu rõ pháp hành, nên sanh ra pháp hành. Ý muốn nói rằng: vì Vô Minh chúng ta không nhận định được rõ ràng tội phước, thiện ác nên chúng ta hành động: đã làm, đang làm hoặc sắp làm gọi là pháp hành.

Ái dục là sự mong ước và nguyện vọng của con người như muốn sự giàu sang, sung sướng sanh về cõi trời v.v... nói tóm lại là muốn sự an vui cho mình càng ngày càng nhiều.

Nghiệp là nơi Vô minh và Ái dục mà ta tạo ra nghiệp. Nghiệp đây ý nói là nghiệp thiện hay là ác. Khi có nghiệp ta phải sanh lại để hưởng hay thọ cái nghiệp ấy. Nghiệp ấy là vật thực của chúng sanh.

Vấn: Tất cả các pháp sanh ra đều do nơi một nguyên nhân nào mới sanh lên được, bạch Ngài? Vậy tội và phước do nơi nguyên nhân nào sanh lên?

Ðáp: Nguyên nhân sanh tội là do nơi Tam độc là Tham, Sân, Si. Tam độc làm cho ta không còn phân biệt thiện ác, ý muốn nói rằng: ta chỉ thấy ÁC, ÁC và ÁC, vì vậy nên ta cứ làm ÁC.

Nguyên nhân sanh lên phước là do nơi không tham lam, không sân hận và không si mê. Không tham lam là nguyên nhân làm cho con người có lòng từ bi lo bố thí. Không sân hận là nguyên nhân làm cho người trì giới được trong sạch. Không si mê là nguyên nhân làm cho tâm con người không vọng động nên mau đắc Thiền định; Thiền định khi đắc rồi là nguyên nhân làm cho người phát sanh Trí tuệ, mà Trí tuệ là nguồn cội sanh phước.

Vấn: Bạch Ngài, hai pháp là Phước và Tội, pháp nào có sức mạnh hơn? Pháp nào có quả báo nhiều hơn?

Ðáp: Phước có quả báo nhiều hơn hay có thể nói là cao thượng hơn.

Vấn: Bạch Ngài, tại sao phước lại có quả báo nhiều hơn tội?

Ðáp: Nếu giải ra có nhiều nguyên nhân, nhưng xin đưa lại một biện pháp thật tế và gần đây cho ông dễ hiểu và ít mất thì giờ. Khi con người làm điều tội lỗi nặng nhứt là Ngũ nghịch đại tội, khi chết sanh về cõi A tỳ địa ngục lâu không sao kể cho xiết, nhưng rồi trong ngày nào đó lại được sanh lại làm thú, rồi người, tuần tự theo đà tiến hóa. Còn người mà đã đắc được THÁNH QUẢ nhập Niết Bàn rồi thì không có ngày trở lại một cõi nào trong Tam giới. Như thế chỉ cho chúng ta thấy rằng: Phước có quả báo cao thượng hơn, mạnh hơn, nhiều hơn.

Vấn: Bạch Ngài, một người không biết tội là gì, họ tha hồ làm tội còn một người biết đạo đức và tu hành, nhưng vì hoàn cảnh bắt buộc họ phải làm tội. Vậy trong hai người ấy, người nào bị tội nhiều hơn?

Ðáp: Người không biết tội làm tội bị tội nhiều hơn.

Vấn: Bạch Ngài, sao lạ vậy? Theo tôi hiểu thì người biết tội song họ lại làm thì phải bị tội nhiều hơn mới phải chớ. Theo luật thế gian thì người biết tội, làm tội, bị tội nhiều hơn, vì lẽ người ấy cố tâm làm, còn người không biết tội, làm tội là vì ngộ tâm, thì người biết tội làm tội phải bị tội nhiều hơn mới phải chớ.

Ðáp: Ông nói nghe hữu lý, tôi cũng nghĩ như ông; nhưng đây trái lại không phải là tôi, vì đây là lý của Phật mà tôi là người thay thế để nói lại những gì Phật đã dạy. Vậy tôi xin hỏi ông như vầy: Một người biết rằng: đây là lửa, trường hợp bắt buộc họ phải bốc, nhưng họ chỉ bốc với hai ngón tay, thì nếu có phỏng cũng phỏng hai ngón thôi. Còn người không biết là lửa, họ bốc hay họ hốt cả hai tay, vậy trong hai người ấy ai phỏng nặng hơn? Lửa đây tôi ví như tội.

Vấn: Lẽ cố nhiên là người hốt cả bụm lửa phải bị phỏng nhiều hơn.

Ðáp: Ðó cũng ví như người biết tội và không biết tội. Người biết tội một khi vì hoàn cảnh bắt buộc họ phải làm, họ mới làm chớ không phải tự ý muốn, trước khi làm tâm vẫn lo sợ quả của tội ấy, trong khi làm cũng lo sợ, sau khi đang làm xong lòng vẫn nghĩ ăn năn hối hận, lo âu.

Còn người không biết tội, trước khi họ tìm kiếm làm tội hết sức làm theo sở thích của họ, đang khi làm họ càng cố làm cho kết quả mỹ mãn, khi làm xong họ tự hào rằng: Họ làm việc ấy được kết quả mỹ mãn lắm. Vậy ông là người bàng quan ông thử định coi ai tội nhiều hơn?

Vấn: Bạch Ngài, nếu xét kỹ tôi thấy rằng: Người biết tội kia ví như người ngộ tâm, còn người không biết tội là người cố tâm thì người cố tâm phải có tội nhiều hơn người ngộ tâm.

Bạch Ngài, còn như người không biết phước mà làm phước có lẽ được phước nhiều, vì họ cố tâm làm đại như người làm tội kia vậy.

Ðáp: Trái lại, người không biết phước làm phước được phước ít hơn. Bởi sự làm phước lại có lề lối khác hơn, đây tôi xin ví dụ:

Có người kia giàu lòng bố thí, khi gặp một người nghiện rượu đến xin người bố thí. Người thí chủ vui lòng cho. Khi đi mua rượu cho y cũng vui thích trong tâm, khi đang cho y cũng vui thích, khi cho xong y cũng vui thích, nó tròn đủ ba nguyên nhân. Nhưng sự bố thí của người thí chủ ấy không có phước vì họ bố thí chất say cho người khác.

Ðây là ví dụ thứ nhì: người kia không từng biết làm phước là gì, khi được người thiện tín rủ đi chùa làm phước, họ chỉ vị tình nên họ gởi tiền hay là vật gì để làm phước cúng chùa giùm họ; vì lẽ không biết phước là gì, nên cái phước của người ấy làm cũng không được kết quả mỹ mãn. Kiếp sau người ấy sanh lại giàu sang, nhưng không biết gì về sự tu hành để giải thoát, vì không trông thấy cái khổ của Sanh Tử Luân Hồi. Ðây là cái hại của sự không biết làm phước. Còn người biết làm phước trước khi làm phước người ấy suy nghĩ thấy đời là Vô Thường không chi bền vững, những gì ta có cũng không vĩnh viễn với ta, người ấy suy nghĩ thấy ba Tướng như có đoạn tôi đã giải cho ông rõ rồi, khi ấy họ vui với sự bố thí vì nghĩ rằng: Ðây là con đường đi đến Niết Bàn, nguyên nhân diệt trừ phiền não là sự bỏn xẻn, đắp thêm lòng Từ bi thương nhân loại; khi bố thí xong người ấy cũng không mong được trả ơn ngày nào. Khi đang bố thí, y hết lòng lo lắng vui vẻ, kính trọng người thọ thí chớ không ỷ mình là thí chủ coi thường người thọ thí. Khi bố thí xong y thấy lòng hân hoan thơ thới vì đã làm được việc lành. Hơn nữa, nếu người hiểu biết rành về Phật pháp thì khi làm phước người ấy làm bằng đồng tiền Chánh Nghiệp nên phước báu càng cao thượng.

Vấn: Bạch Ngài, thế nào gọi là đồng tiền chánh nghiệp?

Ðáp: Tiền mà tự ta làm ăn chơn chánh, như không trộm, cướp, lường gạt, hay giết thú bán lấy tiền, gọi là đồng tiền chánh nghiệp hay là đồng tiền chân chánh.

Vấn: Bạch Ngài, khi chúng ta muốn hành cho mau giải thoát thì phải hành thế nào?

Ðáp: Phải hành như con chim, đừng hành như con lợn.

Vấn: Bạch Ngài, tại sao Ngài lại đem hai con thú ấy làm ví dụ cho người hành đạo?

Ðáp: Bất cứ loại chim nào được hay bị ông bắt đem nhốt trong cái lồng sơn son thếp vàng cho ăn sung sướng, mặc dầu là sung sướng nhưng trong thâm tâm của nó cũng vẫn muốn giải thoát khỏi cái lồng tai hại ấy. Chim đó có khác nào người muốn giải thoát, cư sĩ cũng như xuất gia, đều có hoàn cảnh ràng buộc: các bực xuất gia vì say mê trong sự cúng dường và kính nể của thiện tín, nên không thể bỏ chùa ra đi hành đạo; nếu vị nào có nhiều trí tuệ trông thấy những pháp ấy như là cái lồng đẹp nhưng làm mất sự giải thoát của mình, các Ngài cố gắng chạy khỏi cái lồng tai hại ấy. Còn về phần các vị tại gia, khi còn ở trong gia đình mà cố công hành đạo thường bị Tài, Sắc, Lợi, Danh làm cho tâm say mê, không thể hành đạo cao thượng được, làm trở ngại sự tu tập; khi nhìn thấy cái tai hại ấy thì cố lo chạy ra khỏi cái lồng nguy hiểm ấy. Ðó là người biết hành theo cái hạnh con chim.

Còn con lợn thì có khác, cả ngày chỉ biết đòi ăn, ăn xong lại đi nằm, ăn cho mập lại bị đem đi làm hàng. Người xuất gia ham mê theo sự cúng dường, sự sùng bái, sự khen tặng của tín đồ quên lo tu hành. Còn người cư sĩ thì mảng lo mê say theo tài, sắc, lợi, danh mà không lo tu hành để ngày kia tử thần đến đành ngửa cổ cho Tử thần xuống tay, thế là uổng cho một kiếp người. Người xuất gia và người tại gia như thế thật không có cái hạnh của con chim mà phải chịu số phận của con heo vậy.

-ooOoo-

Vấn: Bạch Ngài, tiếng nói là ALAHÁN, là tiếng Việt hay là tiếng Anh?

Ðáp: Tiếng ALAHÁN là tiếng âm của Nam Phạn là ARAHAM, Bắc Phạn là ARHAM, có bốn nghĩa là:

1/ ARINAM ARAKATTÀ nghĩa là xa lìa quân thù.
2/ ARANAM HATATTÀ nghĩa là người bẻ gãy những căm.
3/ PACCÀYÀTÌNAM ARAHATAATÀ nghĩa là đáng cho chúng sanh lễ bái cúng dường (Tàu dịch là Ứng cúng).
4/ PÀPAKARAN RAHÀBHÀVE nghĩa là không làm tội lỗi nơi khuất tai, khuất mắt.

Vấn: Theo nghĩa số một Ngài bảo xa lìa quân thù, vậy chớ chi là quân thù của các Ngài?

Ðáp: Quân thù đây ngụ ý là phiền não, bậc A La Hán không bao giờ gần được quân thù ấy.

Vấn: Nếu vậy nên hiểu rằng: phiền não sợ vị A La Hán hay vị A La Hán sợ phiền não?

Ðáp: Nếu chúng ta muốn nói phiền não sợ vị A La Hán hay vị A La Hán sợ phiền não, nói cách nào cũng được.

Vấn: Bạch Ngài, Ngài dạy phân hai vậy làm sao hiểu được, phàm hai điều phải có một điều đúng một điều sai chớ?

Ðáp: Bởi ông hỏi phân hai tôi phải trả lời phân hai vậy. Vì trong câu hỏi của ông cũng có đúng và cũng có sai. Như câu ông hỏi: Phiền não sợ đức A La Hán là đúng. Vì lẽ cố nhiên bao giờ cũng như bao giờ các bậc chưa đắc Thánh quả, tôi muốn nói là A La Hán quả, vì bậc A La Hán mới hoàn toàn diệt tận hết phiền não, còn ba bậc dưới vẫn còn phiền não nhiều hay ít. Từ A Na Hàm trở xuống phàm nhơn là người còn cố gắng đánh đuổi phiền não cho đến khi nào các Ngài đánh bật phiền não ra khỏi tâm các Ngài, thì chừng ấy phiền não không bao giờ dám đến gần. Hơn nữa, khi chúng ta chưa đắc tới A La Hán quả là chúng ta còn kinh sợ phiền não và cố đánh hay diệt trừ phiền não. Ðến khi đã đắc A La Hán quả rồi trái lại phiền não lại sợ ta, vì nó là quân đã bị bại trận thì còn đâu dám léo hánh lại gần.

Vấn: Ngài dạy thế thì tôi đã hiểu rõ rồi, vậy xin Ngài vui lòng giải câu bẻ gãy căm. Tiếng nói căm đây ý Ngài dạy chi?

Ðáp: Tiếng căm đây có ý nói căm của bánh xe luân hồi.

Vấn: Theo lời Ngài dạy làm cho tôi cảm tưởng luân hồi là một cái xe, có thùng xe, gọng và bánh xe, nên có căm xe v.v... Vậy xin Ngài vui lòng chỉ dạy.

Ðáp: Ông tưởng tượng như thế thật đúng, căm của bánh xe luân hồi đem chúng ta đi quanh quẩn trong Tam giới.

Vấn: Nếu Ngài dạy vậy xin Ngài cho phép tôi hỏi Ngài kỹ lại. Bạch Ngài, nếu có căm thì dĩ nhiên phải có đùm, có niền, có cây dí và có thùng xe. Vậy xin Ngài ví dụ cho đủ một cái xe cho tôi biết thêm.

Ðáp: Có Già, Bịnh, Chết là Vành. Vô minh, Cảnh giới, Ái dục là Ðùm. Tập hội họp những sự khổ và phiền não trần ASAVA là cây Dí. Có mười pháp là: Hành, Thức, Danh, Sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái dục, Thủ, Hữu, Sanh là Căm. Có Sanh, Tử là Vành, có Tập và phiền não là Dí, thế là đủ cho thấy một cái bánh xe Luân hồi. Còn Tam giới là thùng xe. Vì vậy nên mới nói rằng: Các bậc A La Hán bẻ gãy những căm của bánh xe luân hồi.

Vấn: Bạch Ngài, làm cách nào mới bẻ gãy được bánh xe luân hồi?

Ðáp: Người muốn bẻ gãy được bánh xe luân hồi phải đứng trên đất cứng, đất đây là Giới. Hay chân thật là cứng là Tinh tấn. Tay trái cầm cái bánh xe cho thật chắc, ấy là đức tin. Tay mặt cầm cái búa thật bén, búa ấy là Trí tuệ. Khi ấy mới chặt ra từng đoạn, từng mảnh vụn, không cho còn vành, đùm v.v... nữa, thì nó không thể nào ráp lại thành bánh xe được.

Người tiêu diệt được bánh xe luân hồi bằng đức tin, Giới tinh tấn, Trí tuệ mà tự người ấy đã tạo ra từ vô số kiếp. Người mà bẻ được bánh xe luân hồi gọi là A La Hán. Bậc đã được quả A La Hán cũng gọi là JÀTIKKHAYAMPATTO nghĩa là bậc đã đi đến nơi không còn sanh.

Vấn: Xin Ngài giải cho tôi rõ câu thứ ba nói: là đấng đáng cho chúng sanh cúng dường.

Ðáp: Ðại khái nói rằng: Ðức A La Hán là đấng không còn phiền não đã bẻ gãy bánh xe luân hồi, là bậc đáng thọ lãnh sự lễ bái và cúng dường của nhân loại. Chỉ có bậc đó mới là phước điền của nhân loại.

Vấn: Còn câu thứ tư dạy rằng: đức A La Hán không hề làm tội lỗi nơi khuất tịch, ấy có ý dạy thế nào?

Ðáp: Một khi người làm tội lỗi hoặc nơi đô hội hay nơi khuất tịch đều do nơi lòng dẫy đầy phiền não. Riêng các đấng không còn phiền não thì không bao giờ muốn làm quấy hoặc không bao giờ làm trong khi quên mình hay không bao giờ làm bằng cách vô ý. Ví như người đã ăn no rồi không khi nào biết thèm gì mặc dầu đồ ăn ấy có ngon đến đâu cũng không thể dùng thêm được. Còn người phàm như chúng ta dẫy đầy phiền não ví như kẻ đã quá đói thấy cái gì có thể ăn được là ăn ngay không từ một vật gì; đây ý nói chúng ta là người nhiều phiền não như người đói gặp điều tội nào nơi đô hội hay nơi khuất tịch cũng không từ.

Vấn: Bạch Ngài, tiếng PHẬT nghĩa là chi? Tiếng âm hay tiếng Việt?

Ðáp: Tiếng "PHẬT" là tiếng âm của Phạn ngữ. Nếu đọc nguyên là Phật Ðà, nguyên ở chữ BUDDHÀ ra. Phật Ðà nghĩa là Giác Ngộ, nghĩa là hiểu thông mọi lẽ trong Trời Ðất. Cũng còn nhiều nghĩa nữa.

Vấn: Bạch Ngài, nếu còn nhiều nghĩa nữa xin Ngài vui lòng giải luôn cho chúng tôi biết.

Ðáp: Ông muốn vậy thì tôi cũng giải cho ông hiểu được, nhưng tôi không thể giải theo Tàu được vì tôi không thể tìm đủ nghĩa của Phạn ngữ ra Tàu như Phật là Giác Ngộ vv... Tôi chỉ giải tiếng Phạn ra tiếng Việt thôi.

Vấn: Bạch Ngài, không sao, miễn là Ngài giải bằng tiếng Việt cho chúng tôi hiểu được là xong chuyện, vì tôi là người mong học triết lý chớ không học từ ngữ hay văn chương.

Ðáp: Phật Ðà (BUDDHA) có mười lăm nghĩa khác nhau là:

1/ BUJJHITASACCÀTINI, nghĩa là: Ngài là đấng hiểu rõ những sự thật (ý nói hiểu rõ Tứ diệu đế).

2/ BODHENATO PAJÀYATI, nghĩa là: Ngài kêu gọi chúng sanh, dạy cho chúng sanh hiểu rõ sự thật mà Ngài đã hiểu.

3/ SABBANNÙTAYÀ, nghĩa là: Ngài thông thấu rõ mọi lẽ trong Tam thế không thầy chỉ dạy.

4/ SABBADASSÀVITÀYA, nghĩa là: Ngài thông thấu rõ mọi lẽ trong Tam thế.

5/ ANANNANEYYATÀYA, nghĩa là: Ngài giảng giải cho chúng sanh thấy và biết rõ Niết Bàn. Ngài thông hiểu những pháp mà chúng sanh trong Tam giới không thể hiểu được.

6/ VISATITAYA, nghĩa là: Ngài có đầy đủ trí nhớ.

7/ KHÌNASAVASANKHÀTENA, nghĩa là: Ngài diệt tận vi trần.

8/ NIRUPAKILESASANKHÀTENA, nghĩa là: Ngài là đấng hoàn toàn trong sạch không còn bị phiền não làm nhơ bẩn.

9/ EKANTAVITARÀGÀTI, nghĩa là: Ngài đã hoàn toàn xa lìa Tham ái.

10/ EKANTAVITADOSOTI, nghĩa là: Ngài hoàn toàn xa lìa phiền não là Sân, Hận.

11/ EKANTAVITAMOHOTI, nghĩa là: Ngài hoàn toàn xa lìa phiền não là Si mê.

12/ EKANTANIKKILESO, nghĩa là: Ngài hoàn toàn không còn một vi tế phiền não nào trong tâm Ngài cả.

13/ EKAYÀNA MAGGAM GATOTI, nghĩa là: Ngài là đấng đã đi trên con đường đi một mình (con đường này ngụ ý chỉ Bát Chánh Ðạo). Con đường đi đến Niết Bàn.

14/ EKO AUTTARASAMMÀSAMBOBHI ABHISAMBUDDHO, nghĩa là: Tự Ngài ngộ lấy pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

15/ ABUDDHVIHATATTABUDDHIPA TI-LÀBHÀ, nghĩa là: Ngài diệt trừ sự tối mê bằng sự Giác ngộ.

Vấn: Bạch Ngài, sự cố thù, húng hiếp, thù nghịch, hại người mà phát sanh lên là do một nguyên nhân nào?

Ðáp: Do nơi sự ganh tị và bỏn xẻn.

Vấn: Ganh tị và bỏn xẻn sanh lên là do nơi một pháp nào hướng dẫn?

Ðáp: Bởi sự thương và ghét trong các pháp hành.

Vấn: Sự thương và ghét trong các pháp hành sanh lên do nơi đâu?

Ðáp: Do nơi sự ham thích trong Ngũ trần,

Vấn: Sự ham thích trong Ngũ trần sanh lên do nơi đâu?

Ðáp: Do nơi sự hằng suy nghĩ trong các ác pháp.

Vấn: Sự suy nghĩ trong các ác pháp phát sanh lên do nơi đâu?

Ðáp: Bởi các pháp ác làm cho tâm ta có tham muốn, Ái dục, Ngã mạn, Tà kiến. Ái dục là nguyên nhân làm cho ta say mê trong sự yêu thương tình ái, luôn luôn muốn được an vui về nhục dục. Ngã mạn là nguyên nhân làm ta chấp lấy thân Ngũ uẩn này, và chấp trong khi tuổi còn trẻ hay là già tùy theo tuổi, vì người chấp rằng: tuổi ta còn trẻ là tuổi vui chơi, vì vậy họ không cần lo làm việc lành hay tu hành gì cả. Còn các bực có tuổi thì họ lại nói rằng: Tuổi này mà còn tu hành gì kịp nữa, tuổi này ta đã hiểu đời lắm rồi không ai dạy ta nữa. Vì vậy các ông không chịu ai giảng giải chi hết. Ngoài ra còn chấp: ta là hạng quý phái, sang giàu, có quyền chức, có thế lực. Còn tà kiến làm cho ta nhìn thấy phải và trái, trái và phải.

Vấn: Bạch Ngài, muốn tiêu trừ các pháp ấy phải làm thế nào?

Ðáp: Phải cố gắng vun trồng thiện pháp và cố diệt trừ các ác pháp. (Nếu muốn hiểu rõ thêm xin xem lại quyển Ðế Thích Vấn Ðạo của tôi đã ấn tống).

Vấn: Bạch Ngài, theo tôi thiết tưởng chúng ta ai cũng có Phật tánh thì chúng ta hãy cố tìm cho ra cái tánh ấy là được chớ có khó gì và cái tu cũng không phải phiền phức nhiều chuyện dông dài quá, nào là phải biết pháp này, pháp nọ, tôi tưởng tu tất là xong.

Ðáp: Ông nói nghe có lý lắm, tôi mà không hiểu theo lẽ đạo cũng mê theo lý thuyết của ông. Nhưng ông cho tôi hỏi lại câu ông vừa nói, rồi tôi trả lời câu ông hỏi, ông có bằng lòng không? Tôi hay là ai là người học Phật đều biết tiếng Phật nghĩa là Giác mà nếu chúng ta có PHẬT TÁNH sao còn si mê?

Vấn: Vì bị vô minh che đậy, ví như hòn ngọc bị chất đá bao kín, làm cho chúng ta không thấy được hòn ngọc bên trong.

Ðáp: Ông nói thật là có lý, nhưng hai pháp GIÁC và MÊ là hai pháp tương phản nhau, không thể đi chung nhau được. Nếu còn mê thì không có giác, mà khi đã giác rồi thì không còn mê nữa, cũng như khi có sáng đến thì không thế nào ông tìm cho ra cái tối, mà khi đã tối thì làm gì có sáng. Ðây xin ông vui lòng giải cho tôi nghe.

Vấn: Bạch Ngài, khi tánh nết chưa được hoàn toàn thì làm sao lại không mê?

Ðáp: Vì bởi tánh nết chưa hoàn toàn nên chưa gọi là PHẬT TÁNH được. Xin ông nghe tôi ví dụ thêm, nếu trời sáng thì nói sáng, bằng tối thì ta nói tối, còn mờ mờ thì ta gọi là mờ mờ, chớ có ai nói mờ mờ là sáng được không? Theo ông nói thì có thể làm cho người mới hiểu Ðạo họ nghĩ rằng: Họ là một vị Phật không cần phải tu làm gì.

Vấn: Bạch Ngài, nếu không có PHẬT TÁNH, sao lại biết suy nghĩ mọi việc, làm mọi việc?

Ðáp: Thế thì ông còn nhiều ngộ nhận lỗi lầm trong Phật giáo và ông quên những đoạn giảng giải lúc ban đầu về tâm rồi. Tâm nghĩa là suy nghĩ và làm các việc, nếu không có tâm thì thân chỉ là một cái xác thôi, không làm gì được. Còn nếu ông nói về hiểu thì đó lại là thức, là một nguyên nhân khác nhau.

Vấn: Bạch Ngài, thật ra tôi ít hiểu đạo nên câu hỏi không được chu đáo mà bị Ngài chận đứng chớ sự thật ý tôi muốn nói rằng: Sự biết sợ tội lỗi làm lành, lánh dữ, chớ không ngụ ý cái biết của Tâm hay của Thức.

Ðáp: Nếu ông nói vậy đặng chữa cái lý của ông nhưng cũng còn chưa trúng, vì khi ta biết làm những điều phải, tránh những việc quấy là do nơi tâm thiện đi với thiện tâm sở là TẦM nghĩa là thẹn và hổ với tội lỗi. HÚY là kinh sợ điều tội lỗi. Khi có hai pháp nói trên thì tâm không dám làm tội lỗi chớ kỳ thật đó không phải là Phật tánh.

Vấn: Bạch Ngài, nếu không có Phật tánh, vậy làm sao có chúng sanh sanh lên được?

Ðáp: Chúng sanh mà sanh lại đây không phải là do nơi Phật tánh mà trái lại do nơi Vô minh.

Vấn: Tại sao sanh lại do nơi Vô minh? Ðức Thế Tôn có thuyết nơi nào không hay là tự Ngài thuyết lấy?

Ðáp: Ông có biết rằng: Trước khi thành đạo dưới cội Bồ đề, đức Thế Tôn quan sát trông thấy những gì không?

Vấn: Bạch Ngài, không, vì vậy nên tôi xin Ngài hoan hỷ chỉ giáo.

Ðáp: Vì vậy nên ông tưởng tôi nói theo ý kiến của tôi, một Phật tử chơn chánh không bao giờ dám nói theo ý kiến của mình. Vậy tôi xin cho ông thấy rằng: Khi thành đạo đức Phật quan sát về Thập nhị nhân duyên, cũng gọi là Thập nhị duyên khởi, nghĩa là mười hai nguyên nhân sanh ra chúng sanh.

Thập nhị duyên khởi ấy là:

1/ Vô minh sanh ra Hành.
2/ Hành sanh ra Thức.
3/ Thức sanh ra Danh Sắc.
4/ Danh Sắc sanh ra Lục Nhập.
5/ Lục Nhập sanh ra Xúc.
6/ Xúc sanh ra Thọ.
7/ Thọ sanh ra Ái.
8/ Ái sanh ra Thủ.
9/ Thủ sanh ra Hữu.
10/ Hữu sanh ra Sanh.
11/ Sanh sanh ra lão, tử.
12/ Lão Tử, đau đớn, than van, khổ não, buồn rầu, thất vọng.

Sau ấy Ngài mới quán tưởng ngược lại rằng:

1/ Nếu Vô minh diệt thì Hành ắt diệt.
2/ Nếu Hành diệt thì Thức ắt diệt.
3/ Nếu Thức diệt thì Danh Sắc ắt diệt.
4/ Nếu Danh Sắc diệt thì Lục Nhập ắt diệt.
5/ Nếu Lục Nhập diệt thì Xúc ắt diệt.
6/ Nếu Xúc diệt thì Thọ ắt diệt.
7/ Nếu Thọ diệt thì Ái ắt diệt.
8/ Nếu Ái diệt thì Thủ ắt diệt.
9/ Nếu Thủ diệt thì Hữu ắt diệt.
10/ Nếu Hữu diệt thì Sanh ắt diệt.
11/ Nếu Sanh diệt thì Lão, bịnh, tử, than van, khổ não, buồn rầu, thất vọng ắt diệt.

Vấn: Bạch Ngài, Ngài dạy câu Phật ngôn như vậy thì tôi không biết nói sao nhứt là tôi là người căn cơ thấp kém không thể hiểu hơn những gì mà tôi đã hỏi Ngài. Nhưng theo Ngài thì Ngài không nhìn nhận cái thuyết PHẬT TÁNH, phải vậy không?

Ðáp: Phải thật vậy, và tôi xin nhắc lại một lần nữa rằng: Chúng sanh là chúng sanh, chúng sanh làm sao có PHẬT TÁNH được?

Vấn: Bạch Ngài, nếu không có Phật Tánh, thì làm sao có chúng sanh, vậy chúng sanh từ một lý do nào sanh lại?

Ðáp: Như tôi vừa nói với ông rằng: Từ Vô minh sanh lại, thưa ông, ông đã quên rồi sao?

Vấn: Vậy xin Ngài cho tôi hiểu rõ chữ Vô minh nghĩa là gì?

Ðáp: Tiếng Vô minh dịch từ tiếng Phạn là ÀVIJJÀ. Tiếng ÀVIJJÀ mới có từ ngày đức Thế Tôn thành đạo dưới cội Bồ đề chớ trước ngày ấy không ai biết tiếng Vô minh ÀVIJJÀ ấy cả. Vậy tôi xin giải theo Phạn ngữ. Chữ ÀVIJJÀ chia ra làm hai phần là A và VIJJÀ. A nghĩa là KHÔNG, VIJJÀ nghĩa là HIỂU. ÀVIJJÀ nghĩa là không phân biệt và không hiểu theo lời Phật dạy thì, vật chi không nghe, không thấy, không biết, không phân biệt đều gọi là ANANÀM, ADASSANAM hay cũng gọi là ÀVIJJÀ nghĩa là Vô minh.

Vấn: Bạch Ngài, có lẽ Ngài muốn ngụ ý nói chúng sanh không trông thấy pháp Tứ Ðế nên gọi là Vô minh chăng?

Ðáp: Ấy là cái Vô minh CŨ, hay tạm gọi là Vô minh chớ kỳ thật nó chỉ là hiện ảnh của Vô minh thôi, chớ không phải thật là Vô minh cũng gọi nó là Si mê. Theo kinh thì thường gọi đó là Si mê thuộc về Tam độc chớ không bao giờ gọi là Vô minh cả. Tại sao vậy? Vì con người còn biết thương, ghét, buồn, tham, giận v.v... nên không thể gọi là Vô minh, mà gọi là Si mê. Vì họ không thấy lý của Tứ Ðế. Còn cái Vô minh mà tôi nói với ông đây là cái Vô minh là cái Vô minh thật, ý tôi muốn nói cái Vô minh không biết gì hết, hay nói cho dễ nghe là cái Vô minh mới.

Vấn: Vậy thì lại còn có cái Vô minh cũ; Vô minh mới hay là Vô minh tạm gọi nữa thật là phiền phức quá. Song xin Ngài giải rõ cho tôi hiểu hai cái Vô minh ấy khác nhau như thế nào?

Ðáp: Vô minh mới là đất, nước, gió, lửa, vì những chất ấy không biết thương, ghét, đau, khổ v.v... ví như sắt mới đem từ mỏ lên chưa lọc xong nên chưa dùng vào đâu được.

Vấn: Bạch Ngài, nếu nói Tứ đại là Vô minh không có cái biết tại sao lại sanh ra con người có cái biết được, nếu không có Phật tánh?

Ðáp: Một khi Tứ đại hội họp lại gọi là Hành, khi Hành ấy đi tới mức hoàn toàn rồi thì lại có THỨC nghĩa là lúc biết cử động, khi nó cử động được thì nó có hai pháp gọi là Danh, Sắc v.v... như THẬP NHỊ DUYÊN KHỞI mà tôi đã nói xong.

Vấn: Bạch Ngài, Ngài giải vắn tắt quá chúng tôi không thể hiểu nổi xin Ngài vui lòng chỉ dạy cho rõ thêm.

Ðáp: Xin Ông cho tôi biết: Ông có từng thấy, những con thú nào sanh lên do nơi những chất như lá cây hay không?

Vấn: Bạch Ngài, có, chính tôi lúc nọ có gặp con cào cào sanh bởi đọt cây trứng cá, tôi thấy rõ ràng cái đầu nó còn dính với cọng, tôi lấy làm lạ có hỏi nhiều người, có người bảo rằng: Ðó là chuyện thường. Tôi còn hỏi nhiều người học thức thì lại bảo: Ðó là do nơi một con cào cào đẻ trứng trên đó nên nó mới sanh ra được, mà Ngài nghĩ coi tin các ông ấy sao được, vì chính tôi trông thấy cái đầu của nó còn dính nơi cọng trứng cá, mà hơn nữa tôi thấy ổ cào cào chớ không thấy trứng cào cào bao giờ. Tôi còn thấy hai cái cánh của nó còn là cái lá cây một bên khúc trong coi như cái cánh, bên ngoài còn là lá. Sau lại tôi còn gặp cái mình là con cào cào, còn cái đầu chưa có cái mình cũng còn dính với cái cọng cây trứng cá. Lại nữa, hồi tôi về thăm nhà, ở nhà tôi có người bạn đi bắt cá mò nhằm một con lươn mà kéo hoài không ra, y tức giận lấy dao cắt đứt đem ra thì cái khúc trong là rễ của cây lăng, ngoài là đuôi con lươn. Tôi nghĩ không lẽ lươn lại đẻ khúc trứng dính ở rễ cây rồi lại sanh ra lươn. Còn một chuyện lạ nữa là con đường từ Vientiane đi Luang Prabang có một đoạn rừng toàn một thứ cây gọi là cây sỉnh, nếu năm nào cây ấy trổ bông thì khổ lắm, không biết hàng triệu con chuột từ đâu đến ăn hại mùa màng không làm sao trừ diệt cho kịp. Sau người ta tìm ra biết rằng: Những con chuột tai hại ấy sanh bởi bông cây sỉnh. Ngài thử nghĩ coi nếu nói chuột đẻ thì những năm cây ấy không trổ bông sao không có giống chuột ấy, còn nói chuột là giống sanh mau đẻ lẹ thì làm gì trong một lúc sanh hàng triệu con, đành rằng chuột đẻ nhiều, nhưng cái nhiều có giới hạn chớ nhiều gì không thể ức đoán được vậy. Nên những gì mà tôi thấy thì tôi tin chắc vậy, mình cũng có thể tin các ông ấy nhưng có chỗ mình phải dùng trí mà phán đoán chớ làm sao tin càn được.

Ðáp: Theo ông thì ông tin rằng: Lá cây trứng cá, rễ cây lăng và bông cây sỉnh thành ra những con thú mà ông nói có phải vậy không?

Vấn: Bạch Ngài, tai sao thì tôi không biết, chớ tôi thấy sao thì tôi tin vậy, mặc dầu có ai nói tôi ngu tôi cũng chịu.

Ðáp: Vậy thì tôi xin hỏi ông lá cây trứng cá, rễ cây lăng và bông cây sỉnh kia có PHẬT TÁNH không?

Vấn: Bạch Ngài, những cái ấy đều không có PHẬT TÁNH.

Ðáp: Thế là tự ông nhận rằng: Những vật ông nói không có PHẬT TÁNH mà sanh lại những con thú ông vừa kể, thì ông suy nghĩ kỹ theo Thập nhị duyên khởi ông sẽ thấy rõ là Vô minh sanh ra chúng sanh.

Vấn: Bạch Ngài, tôi vẫn còn thắc mắc, tại sao trước kia là Vô minh rồi họp lại gọi là Hành, rồi lại Thức v.v... như Ngài đã giảng, rồi Thức từ đâu đến?

Ðáp: Vậy tôi xin thí dụ này không có tánh cách khoa học: xương cá khô, rau dền, lá mồng tơi, măng, mướp, bắp xắt ra rồi nấu chung, khi nó chín, vật ấy có tên là gì? Nó là thức chi?

Vấn: Người ta gọi là canh Xiêm lo, nó là một thức ăn của người Việt.

Ðáp: Tại sao lại gọi là canh Xiêm lo mà không gọi là xương cá khô nấu mướp v.v..., nếu ta lấy ra một hai món, ta có thể gọi là canh Xiêm lo được hay không?

Vấn: Bạch Ngài, không.

Ðáp: Tại sao vậy?

Vấn: Vì không đủ chất cho thứ canh ấy.

Ðáp: Ðây là một ví dụ cho ông thấy rằng: Nếu trong Tứ đại mà thiếu một chất nào thì cũng không thế nào cấu tạo ra được. Như ở những xứ lạnh thì những loại kiến, mối, ruồi có rất ít vì nó thiếu nguyên nhân cấu tạo cho phát sanh lên. Khi những vô minh ấy cấu tạo rồi dần dần nó lại thành ra có thức như tôi đã giải cho ông nghe trong Thập nhị duyên khởi.

Vấn: Nếu Ngài dạy thế thì phải cần có Thức nữa mới được chớ?

Ðáp: Vậy canh Xiêm lo cần phải có một chất chi nữa mới gọi là canh Xiêm lo không?

Vấn: Bạch Ngài, không.

Ðáp: Thì cũng như tôi đã ví dụ có Tứ đại thì đã đủ rồi không cần có gì thêm nữa.

Vấn: Nếu dạy như Ngài thì không có PHẬT TÁNH sao?

Ðáp: Theo tôi hiểu thì không có, vì như tôi đã nói với ông rằng: Phật nghĩa là Giác, mà một khi người đã Giác thì hoàn toàn không còn mê say trong ngũ trần nữa. Nếu nói là người có Giác mà còn bị vô minh bao bọc thì mâu thuẫn quá.

Vấn: Bạch Ngài, Ngài dạy vậy tôi nghe vậy, nhưng còn có chỗ tôi nghi ngờ là tôi có xem kinh có chỗ Phật dạy rằng: Chúng sanh là Phật vị lai. Vậy có nghĩa là sao, bạch Ngài?

Ðáp: Lẽ cố nhiên chúng sanh nào muốn thành Phật thì phải noi theo con đường của chư Phật đã thành từ vô số kiếp, là phải hành theo pháp Ba La Mật của Ngài thì sẽ thành Phật. Có khi nào ông thấy trong đoạn kinh nào nói: Người không tu mà thành Phật không? Ông hãy thử nghĩ có một ông kỹ sư kia tìm thấy một mỏ sắt tốt, ông ấy có thể nói rằng: Ðây là kho khí cụ của ta. Mà chính ông ấy không khai mỏ ấy và đem về lọc lại rồi tạo ra khí cụ. Nếu ông ấy không khai mỏ và không biến chế, ông ta có được khí cụ không? Ðiều này ví như chúng ta không tu thì không thể thành giống gì được hết; phải tu mới thành chớ.

Vấn: Nếu nói như Ngài thì chúng sanh đi từ cái VÔ MINH tới cái MINH, phải không?

Ðáp: Phải đúng vậy.

Vấn: Bạch Ngài, nếu Ngài nói vậy, Ngài lấy chi làm bằng?

Ðáp: Như tôi đã nói với ông nhiều lần rằng: tôi dựa vào Thập nhị duyên khởi làm tài liệu.

Vấn: Ngài nói sao tôi cũng vẫn còn nghi ngờ vì tôi lấy làm lạ là tại sao chúng sanh đi từ cái Vô minh tới cái Minh được?

Ðáp: Ông nghĩ sao, người ta từ cái dốt đi tới cái khôn có được hay không?

Vấn: Bạch Ngài, tùy theo trường hợp, có thể được lắm chớ.

Ðáp: Vậy tùy theo trường hợp, là trường hợp như thế nào?

Vấn: Nếu chúng ta dốt có thể vào trường học trở nên người thông minh được chớ.

Ðáp: Thì cũng như từ cái Vô minh đi đến cái Minh được cũng không có gì lạ vậy, xin cho chúng ta được thầy hay bạn giỏi chỉ dạy cho thì có khó gì.

Vấn: Nếu vậy xin Ngài giải thế nào cho tôi hiểu, điều này tôi chưa hiểu được, nên tôi không thể tin được. Nhưng tôi không biết làm sao hỏi cho rõ thêm được vì nó quá với sự hiểu biết của tôi.

Ðáp: Ðây là tại ông muốn tò mò hiểu những sự vô ích và quá sức tưởng tượng của ông. Phải chi ông tìm biết ba mươi bảy nhân sanh quả Bồ đề, rồi ông ráng hành theo, khi được viên mãn rồi thì tự ông trông thấy sự giải thoát. Vì những sự của ông biết không phải là nhân giải thoát chỉ tìm hiểu chơi mà thôi. Giờ tôi xin hỏi ông: Người ta có thể lấy nước mặn làm ra nước ngọt được không?

Vấn: Bạch Ngài, theo tôi tưởng thì được lắm chớ.

Ðáp: Thế cũng như vô minh vậy, khi mà các bực cao thượng như đức Chánh đẳng Chánh giác, Ðộc Giác dùng ba mươi bảy nhân sanh quả Bồ đề làm dụng cụ nấu nó thì nó lại thành cái MINH. Như người ta đem nước biển lọc hay nấu làm lại nước uống được vậy.

Vấn: Bạch Ngài, Ngài dạy thế thật là chí lý nhưng phải chi Ngài cho thêm một ví dụ nữa.

Ðáp: Vậy cũng được, nhưng xin ông trả lời câu hỏi của tôi đã. Vậy ông có biết người ta làm khô họ dùng chi muối cá không?

Vấn: Bạch Ngài, họ dùng muối để muối cá.

Ðáp: Muối làm bằng gì vậy, hở ông?

Vấn: Bạch Ngài, bằng nước biển.

Ðáp: Vậy tại sao người ta không lấy nước biển mà muối cá lại lấy muối muối cá?

Vấn: Bạch Ngài, nếu dùng nước biển muối cá thì không phải phương pháp.

Ðáp: Tại sao vậy, thì nước biển cũng mặn mà cũng chính nó làm ra muối kia mà?

Vấn: Ðành vậy, nhưng khi nó còn là nước biển không thể đem muối cá được vì nó ít chất mặn.

Ðáp: Vô minh ấy có thể ví như nước biển, nhưng nước biển không thể muối cá được mà phải dùng chất muối, mà chính chất muối lại lấy từ chất nước biển ra. Cũng như các bậc có Trí tuệ nhứt là đức Chánh đẳng Chánh giác biết dùng ba mươi bảy nhân sanh quả Bồ đề ép nấu Vô minh thành cái Minh được vậy.

Vấn: Thật hôm nay tôi chịu cách thuyết của Ngài. Nhưng tôi lấy làm lạ là ai ai khi nói gì cũng muốn cho người ta tin mình, còn riêng Ngài, tại sao Ngài lại bảo tôi khoan tin Ngài?

Ðáp: Sự tin vội là một tai hại cho mình sau này, chẳng hạn chuyện gì dầu lớn hay nhỏ ta cũng phải dùng Trí tuệ suy nghĩ kỹ trước rồi hãy tin. Lắm khi người ta nói một câu chuyện nghe có lý nhưng lại không đúng với sự thật. Mặc dầu đức Thế Tôn là đấng hoàn toàn giác ngộ mà Ngài cũng vẫn dạy chúng sanh hãy suy nghĩ lời Ngài cho chu đáo rồi sẽ tin theo.

-ooOoo-

Vấn: Thật hôm nay tôi chịu cách thuyết của Ngài. Nhưng tôi lấy làm lạ là ai ai khi nói gì cũng muốn cho người ta tin mình, còn riêng Ngài, tại sao Ngài lại bảo tôi khoan tin Ngài?

Ðáp: Sự tin vội là một tai hại cho mình sau này, chẳng hạn chuyện gì dầu lớn hay nhỏ ta cũng phải dùng Trí tuệ suy nghĩ kỹ trước rồi hãy tin. Lắm khi người ta nói một câu chuyện nghe có lý nhưng lại không đúng với sự thật. Mặc dầu đức Thế Tôn là đấng hoàn toàn giác ngộ mà Ngài cũng vẫn dạy chúng sanh hãy suy nghĩ lời Ngài cho chu đáo rồi sẽ tin theo.

Vấn: Thật ra tôi muốn học và hỏi những gì tôi nghi ngờ từ bấy lâu, nhưng không gặp được ai là bực thông hiểu đạo lý rốt ráo để chỉ dạy cho, hôm nay gặp Ngài tôi lấy làm thỏa thích hỏi những chuyện ngoài vấn đề của một người tại gia cư sĩ. Vậy bây giờ xin Ngài vui lòng dạy cho chúng tôi biết cách thực hành của một người cư sĩ làm thế nào. Cư xử làm sao đúng theo lời Phật dạy, đem hạnh phúc lại cho gia đình.

Ðáp: Phật có dạy nhiều nơi trong Tạng Kinh về phận sự của người cư sĩ; nếu người ta có công sưu tầm có thể viết ra một quyển để người cư sĩ hành theo gọi là Luật Tại Gia. Tôi không thể giải hết nơi đây cho ông nghe, nhưng tôi chỉ xin nói những gì tôi còn thuộc được.

Vậy bổn phận người tại gia phải đối với cha mẹ có năm điều là:

1/ BHARANAM, nuôi dưỡng cha mẹ.
2/ KICCAKARANAM, làm tất cả các việc để giúp cha mẹ.
3/ KÙLAVISATHAPANAM, gìn giữ thanh danh của gia đình, không làm mất thể thống của gia đình, và giữ gia tài của cha mẹ để lại.
4/ DÀYAJJÀRAHAPATIPAJJANAM, làm cho ra người đáng thọ hưởng di sản của cha mẹ để lại.
5/ DAKKHINÀNUPADÀNAM, khi cha mẹ quá vãng phải lo làm phước hồi hướng đến cho cha mẹ.

Bổn phận làm cha mẹ đối với con có năm điều:

1. PÀPÀNIVÀRENTI, ngăn cấm con không cho làm điều tội lỗi.
2. KÀLYÀNE NIVESENTI, dạy con làm những việc lành.
3. SIPPAM SIKKHÀPENTI, cho con học các thiện nghiệp (các nghề chơn chánh).
4. SAMAYE DÀYAJJAM NIYYÀDENTI, tùy thời chia của cho.
5. PATIRÙPENE DÀRENA SAMYOJENTI, làm lễ sính hôn cho con tùy theo gia đình của mình (ý nói môn đăng hộ đối, và cũng tùy theo trường hợp).

Người bạn lành đáng cho ta giao tiếp phải có bốn pháp là:

1. UPAKÀRAKO, người bạn có ơn với ta.
2. SAMÀNASUKHADUKKHO, người bạn cùng chia vui khổ với ta.
3. ATTHAKKHÀYÌ, người bạn thường chỉ những điều hữu ích cho ta và dạy những điều tai hại cho ta lánh.
4. ANUKAPPAKO, người bạn thường giúp đỡ những lúc ta hữu sự.

Hơn nữa người bạn đáng cho ta giao tiếp có năm pháp như là:

1. DÀNENA, chia tiền của cho.
2. PIYAVACANENA, thường nói lời dịu ngọt mà hữu ích cho ta.
3. ATTHACARIYÀ, làm sự lợi ích cho ta, nghĩa là thường giúp đỡ ta mọi việc.
4. SAMÀNATTATÀ, có sự hành vi chơn chánh. Ý nói rằng: Khi giúp bạn thì giúp bằng lòng chơn thật chớ không mong vụ lợi, hoặc mong bạn trả ơn, mặc dầu là một chuyện gì. Và bao giờ người bạn ấy cũng có một tư tưởng tương đồng không phản bội.
5. AVISAMVÀDANATÀYA, không bao giờ lừa dối bạn.

Người không đáng cho ta làm bạn có bốn điều mà ta có thể nhận thấy là:

1. ANNADATTHUHARO, người bạn chỉ biết tìm sự lợi ích riêng cho mình. Ý nói người vụ lợi.
2. VACÌPARAMO, chỉ nói tốt ở miệng.
3. ANUPIYABHÀNÌ, chỉ nói xu bợ. Ý nói không bao giờ chỉ trích cái quấy của bạn mặc dầu biết đó là quấy.
4. APÀYASAHÀYO, người bạn dẫn mình tới nơi phá sản. Ý nói người bạn ấy thường rủ mình đi đến nơi sòng bạc, hay quán rượu v.v...

Khi ta chọn được bạn lành ta phải đối xử với bạn ta đúng theo năm pháp này là:

1. DÀNENA, phải cho đồ nên cho. Ý nói cho trong khi bạn ta thiếu món ấy.
2. ATTHACARIYÀ, làm sự hữu ích cho bạn. Ý nói giúp đỡ những gì mà bạn mình không biết hay không thể làm được.
3. PIYAVÀCÀ, nói lời dịu ngọt và thành thật. Ý nói không bao giờ dùng lời thiếu nhã nhặn đối với bạn.
4. SAMÀNATTATÀ, trung thành với bạn.
5. AVISAMVÀDANATÀYA, không nói dối bạn.

Hơn nữa ta phải có thêm năm pháp đối với bạn hiền là:

1. PANATTAM RAKKHANTI, cố trông nom bạn khi người bạn ấy dễ duôi. Ý nói rằng: Khi ta trông thấy bạn ta chểnh mảng việc gì như làm những việc phi pháp hoặc say mê việc gì bỏ phế gia đình, ta cố nhắc nhở.
2. PAMATTASSA SÀPATEYYAM RAKKHANTI, ráng trông nom săn sóc của cải của bạn khi người bạn trụy lạc mà ta chưa khuyên được.
3. BHÌTASSA SARANAM HOTI, khi bạn ta có tai nạn ta có thể cho bạn ta nương nhờ được.
4. ÀPADÀSU NA VIJJAHANTI, không bỏ nhau trong khi hoạn nạn.
5. APPARAPPAJAMPISSA PATIPÙJENTI, quý mến tất cả họ hàng của bạn như của ta.

Bổn phận người giúp việc đối với chủ có năm pháp:

1/ PUBBHATTHÀYINO CA HONTI, phải thức dậy làm việc trước chủ.
2/ PACCHÀNIPÀTINO CA, khi làm việc nghỉ sau chủ.
3/ DINNADÀYINO CA, chỉ lấy của chủ đã phát cho. Ý nói không tham lam, lấy cắp của chủ.
4/ SUKATAKAMMÀKARÀ, càng lo làm công chuyện nhiều thêm.
5/ KITTIVANNAHARÀ CA, ca tụng những việc làm của chủ ở mọi nơi.

Bổn phận của người chủ đối với người làm công phải có năm pháp:

1/ YATHÀBALAM KAMMAN TASAMVIDHÀNENA, cho người làm công làm những việc vừa theo sức họ. Ý nói không bóc lột nhân công.
2/ BHATTAVETTANÀNUPPADÀNENA, cho vật thực và tiền thưởng cho người làm công. Ý nói không vụ lợi, bỏn xẻn.
3/ GILÀNUPATTHÀNENA, khi người có bịnh phải hết lòng săn sóc thuốc men, trông nom cho chu đáo.
4/ ACCHARIYÀNAM RASÀNAM SAMVIBHÀGENA, cho người làm công ăn món ngon vật lạ. Ý nói không bỏn xẻn, cho ăn những đồ không ngon, không thay buổi ăn của người làm công.
5/ SAMAYE VOSSAGGENA, cho nghỉ làm việc hợp thời. Ý nói rằng khi có lễ vui chơi nên cho người làm công nghỉ để đi xem lễ.

Bổn phận làm trò đối với thầy có năm điều là:

1/ UTTHÀNENA, đứng dậy tiếp đón thầy khi thầy đến. Hay bất cứ trong trường hợp nào khi mình đang ngồi.
2/ PACCUPPATTHÀNENA, vào hầu thầy theo thời. Ý nói rằng: Phải vào thăm viếng thầy khi thầy có giờ rảnh hay đau ốm, hoặc có công chuyện gì.
3. SUSSÙSÀYA, vâng lời chỉ dạy của thầy.
4. PÀRICÀRIYÀYA, hầu hạ thầy.
5. SAKKACCAM SIPPAM PATIGGAHANENA, khi học phải tỏ vẻ hết lòng kính trọng và chăm chú nghe lời giảng của thầy.

Bổn phận làm thầy đối với trò có năm pháp là:

1/ SUVINÌTAM VINENTI, dạy trò rất chu đáo.
2/ SUGAHITAM GÀHÀPETI, tập dạy trò trở nên người tốt.
3/ SABBASIPPESU TAM SAMAKKHÀYINO BHAVANTU, dạy không giấu nghề. Ý nói dạy hết những gì mình đã hiểu biết.
4/ MITTÀMACCESU PATIVESENTI, khen trò trước mặt bạn khác.
5/ DISÀSU PARITTÀNAM KARONTI, tránh sự tai hại cho trò trong mọi nơi. Ý nói rằng để ý trông nom những nơi đi, chốn đến, chỗ ở của trò, không để cho trò vì nhẹ dạ, non lòng bị người cám dỗ, hay trụy lạc v.v...

Bổn phận của người tại gia cư sĩ đối với các bậc xuất gia có năm điều là:

1/ METTÀKÀYAKAMMENA, từ bi bằng thân. Ý nói rằng: Hằng giúp đỡ người xuất gia trong mọi trường hợp như bố thí, cúng dường.
2/ METTENA VACÌKAMMENA, từ bi bằng khẩu. Ý nói rằng: Hằng dùng lời dịu ngọt nói với người xuất gia.
3/ METTENA MANOKAMMENA, từ bi bằng tâm. Ý nói bao giờ cũng nghĩ thương hại người xuất gia và nghĩ đến sự giúp đỡ như bố thí v.v...
4/ ANÀVATADVÀRATÀYA, không đóng cửa nhà. Ý nói rằng: Bao giờ cũng mở cửa tiếp đón các bậc xuất gia để giúp đỡ vật thực, thuốc men v.v...
5/ ÀMISÀNUPPADÀNENA, thường cúng dường đến các bậc xuất gia.

Bổn phận người xuất gia phải đối với cư sĩ có sáu điều là:

1/ PÀPÀ NIVÀRENTI, răn dạy tín đồ không cho làm những điều tội lỗi.
2/ KALAYÀNE NIVESENTI, bắt buộc, khuyên bảo các người cư sĩ làm những việc lành.
3/ KALYÀNE MANASÀ ANUKAMPANTI, giúp đỡ tín đồ bằng lòng từ bi. Ý nói giúp đỡ bằng lòng thương hại tín đồ, chớ không vì sự bắt buộc hay vì tư lợi.
4/ ASSUTAMSÀVENTI, dạy tín đồ những pháp giải thoát mà tín đồ chưa từng nghe biết.
5/ SUTAM PARIYODAPENTI, những pháp nào tín đồ đã biết, giải rõ làm cho tín đồ hiểu rõ rệt hơn.
6/ SAGGASSAMAGGAM ÀCIKKHANTI, chỉ Thiên đàng cho tín đồ. Ý nói dạy cách hành đạo cho được an vui trong kiếp này và vị lai, khi không thể xuất gia hành đạo cao thượng. Ngoài ra người tín đồ Phật giáo cần phải biết cách sử dụng tiền, không lãng phí thái quá.

Người tại gia cư sĩ phải xài tiền như thế này là:

1. Nuôi Cha, Mẹ, Vợ, con và giúp đỡ bạn bè.
2. Giúp đỡ quyến thuộc.
3. Xài trong những việc cần như trong khi bịnh hoạn.
4. Cúng dường đến các bậc hành Phạm hạnh. (Người xuất gia).

Làm năm điều giúp đỡ là:

1) NÀTIBALI, chia tiền ra giúp quyến thuộc.
2) ATITHIBALI, tiếp khách.
3) PUBBAPETABALI, làm phước hồi hướng đến những người hữu ơn với ta đã quá vãng.
4) RÀJABALI, đóng thuế.
5) DEVABALI, làm phước hồi hướng đến Chư Thiên.

Lại còn có sáu cách xài tiền nữa là:

1. Trả nợ cũ.
2. Cho vay nợ mới.
3. Trải trên mặt đất.
4. Ðổ xuống hố sâu.
5. Chôn cất.
6. Ðổ vào miệng rắn hổ.

Vấn: Bạch Ngài, trong sáu điều ấy có điều tôi hiểu, có điều không hiểu rõ được, xin Ngài vui lòng giải cho.

Ðáp: Nợ cũ ý nói Cha, Mẹ. Vì chúng ta sanh ra và được lớn khôn có gia đình đều do nơi cha mẹ sinh dưỡng. Công ơn của hai người chúng ta không đo lường được. Cha thì lo chạy tảo, lo tần hầu tìm cho ra tiền để đem về lo cho con ăn học cho nên người, ngoài ra khi con khôn lớn còn lo gia đình, chẳng những vậy lại còn chia gia tài cho, khi con đã lập gia đình rồi. Vì vậy nên đối với cha mẹ con là người thiếu nợ, cha mẹ là người chủ nợ. Vậy bổn phận làm con phải lo trả nợ cũ, ý dạy rằng: Phải ráng phụng thờ nuôi dưỡng cha mẹ cho hơn cái mà cha mẹ đã nuôi dưỡng ta.

Cho vay nợ mới, nghĩa là khi ta có con thì ta phải hết lòng nuôi dưỡng con, như tôi đã giải cho ông nghe trong đoạn của người cư sĩ. Hơn nữa ta phải giúp đỡ quyến thuộc bất cứ bên vợ hay bên chồng.

Trải trên mặt đất, ý dạy phải đóng thuế cho nhà nước, đừng dễ duôi, vì chúng ta là công dân, có bổn phận phải giúp chánh phủ.

Ðổ xuống hố sâu, ý dạy rằng: những cái hố nào mặc dầu sâu đến đâu người ta cũng có thể lấp được, nhưng những cái hố là mắt, mũi, lưỡi, tai, thân này không thế nào ai lấp cho nó đầy được. Như bụng ăn sáng trưa đói, ăn trưa chiều đói. Mắt xem sắc đẹp không bao giờ biết đủ, biết no v.v... Hàng cư sĩ là người còn gần với đời, chúng ta không thể nào tránh khỏi những điều đòi hỏi ấy, thì chúng ta cũng phải trả những cái món nợ ấy, nhưng cũng không nên trả thái quá mà có hại.

Chôn cất để dành, có hai nghĩa là:

A) Phải lo chia tiền để dành dưỡng già, ta không nên tin cậy ở con ta. Vì nếu gặp đứa con bất hiếu thì không ai nuôi dưỡng ta.

B) Làm phước như là bố thí cho người nghèo khó, cho kẻ xuất gia. Vì tiền của mà ta chôn cất nơi đâu cũng không kín vì vẫn còn bị trộm cướp, cháy, trôi, hay chúng ta chết rồi không thế nào đem theo được. Còn phước của ta làm có thể theo bên ta như bóng với hình; mặc dầu ta sanh ra nơi nào phước ấy cũng vẫn theo bên ta và hộ trì ta.

Ðổ vào miệng rắn hổ, ý nói rằng: phải có vợ, có tiền để mua sắm những vật cần thiết của họ, như đồ trang sức đừng để thua kém chúng bạn. Khi các bà bị thua kém chúng bạn thì các bà buồn phiền chắc chắn trong gia đình không được yên vui.

-ooOoo-

 Ðầu trang | 01 | 02 | 03 | 04


Chân thành cám ơn Đại đức Giác Đồng đã gửi tặng phiên bản vi tính (Bình Anson, tháng 8-2001)


[Trở về trang Thư Mục]
updated: 14-08-2001