Dathavamsa
BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with VU-Times font


THERAVĀDA

SỬ LIỆU VỀ XÁ-LỢI RĂNG PHẬT
DĀṬHĀVAṂSA

Nguyên tác Pāli: Dhammakitti Rājaguru Thera
Lời tiếng Việt: Indacanda Bhikkhu (Trương đình Dũng)

SRI JAYAWARDHANARAMAYA
COLOMBO – 2005


 Lưu ý: Đọc với phông chữ VU-Times (Viet-Pali Unicode)

-ooOoo-

Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.
Kính lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri!

* * *

PAṬHAMO PARICCHEDO
CHƯƠNG THỨ NHẤT

1/- Visāradaṃ vādapathātivattinaṃ
tilokapajjotamasayhasāhinaṃ,
asesañeyyāvaraṇappahāyinaṃ
namāmi satthāramanantagocaraṃ.

Tôi xin đảnh lễ bậc Đạo Sư. Ngài là đấng trí tuệ, vượt trên ngôn từ diễn đạt, là ngọn đèn sáng soi tam giới, là vị kham nhẫn việc khó khăn, là vị đã đoạn tận si mê không còn dư sót, và là vị có được năng lực vô biên.

2/- Tilokanāthappabhavaṃ bhayāpahaṃ
visuddhavijjācaraṇehi sevitaṃ,
papañcasaññojanabandhanacchidaṃ
namāmi dhammaṃ nipuṇaṃ sududdasaṃ.

Tôi xin đảnh lễ Giáo Pháp vi tế, cao siêu, là cội nguồn của sự hộ trì tam giới, là sự xua đi nỗi lo sợ, là pháp đoạn trừ những sự trói buộc và các điều phiền toái, được các bậc có trí tuệ và đạo đức thanh tịnh thực hành.

3/- Pasādamattena pi yattha pāṇino
phusanti dukkhakkhayamaccutaṃ padaṃ,
tamāhuneyyaṃ susamāhitindriyaṃ
namāmi saṅghaṃ munirājasāvakaṃ.

Tôi xin đảnh lễ Hội Chúng đệ tử của đấng Mâu Ni. Các ngài có các giác quan hoàn toàn tập trung và là đối tượng xứng đáng cúng dường hạng nhất. Nhờ các ngài mà chúng sanh có được niềm tin vào đạo lộ Bất Tử và sự đoạn tận khổ đau.

4/- Vibhūsayaṃ kāḷakanāgaranvayaṃ
parakkamo kāruṇiko camūpati,
gavesamāno jinasāsanassa yo
virūḷhimatthañca janassa patthayaṃ.

Bản thân vị thống lãnh quân đội nhân từ Parakkama là tinh hoa của giòng dõi Kāl,akanāga và là người đang ra sức thực hiện điều ước muốn của dân chúng, tức là sự tấn hóa và sự lợi ích trong Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng.

5/- Sudhāmayūkhāmalapaṇḍuvaṃsajaṃ
virūḷhasaddhaṃ munirājasāsane,
piyaṃ vadaṃ nītipathānuvattinaṃ
sadā pajānaṃ janikaṃ va mātaraṃ.

6/- Piyaṃ parakkantibhujassa rājino
mahesimaccunnatabuddhisampadaṃ,
vidhāya līlāvatimicchitatthadaṃ
asesalaṅkātalarajjalakkhiyaṃ.

Vị ấy đã củng cố ngôi vị hoàng hậu cho nàng Līlāvatī.[1] Nàng là người có sự thông minh bất hủ, có khả năng làm thành tựu các ước nguyện đang được mong cầu, được nổi danh khắp cả toàn cõi vương quốc Laṅkā, và là người yêu dấu của đức vua Parakkamabāhu. Nàng sanh ra trong dòng dõi Paṇḍu tinh khiết, rạng rỡ, không chút bợn nhơ, có niềm tin vững chắc vào Giáo Pháp của đấng Mâu Ni Vương, có lời nói ngọt ngào và cách cư xử lịch thiệp, luôn được tôn sùng là bậc mẫu nghi của thiên hạ.

7/- Kumāramārādhita-sādhu­mantinaṃ
mahādayaṃ paṇḍunarindavaṃsajaṃ,
vidhāya saddhaṃ madhurindanāmakaṃ
susikkhitaṃ pāvacane kalāsu ca.

Vị ấy đã củng cố ngôi vị thái tử cho Madhurinda là người đã được sanh ra trong dòng tộc vua chúa Paṇḍu, vô cùng nhân hậu, đã thành tựu mọi điều tốt lành, có đức tin, đã học tập thành thạo kinh điển và các học nghệ.

8/- Narindasuññaṃ sucirantisīhaḷaṃ
itippatītaṃ ayasaṃ apānudi,
ciraṃ paṇītena ca cīvarādinā
susaññate saṃyamino atappayi.

Parakkama đã xua đi nỗi ô danh gán cho xứ Sīhaḷa[2] là “Lâu lắm rồi không có người lãnh đạo” và luôn hài lòng về các sự đơn giản, khéo tiết chế đối với vật dụng sang trọng như là y phục, v.v...

9/- Ciraṭṭhitiṃ pāvacanassa icchatā
kataññunā vikkamabuddhisālinā,
satīmatā candimabandhukittinā
sagāravaṃ ten’abhiyācito ahaṃ.

Là người có danh tiếng thuộc dòng dõi mặt trăng, có sự lưu tâm, có lòng tri ân, có sức mạnh và trí tuệ, vị ấy đã trân trọng thỉnh cầu với tôi vì lòng mong mỏi Giáo Pháp được tồn tại lâu dài.

10/- Sadesabhāsāya kavīhi sīhaḷe
katampi vaṃsaṃ jinadantadhātuyā,
niruttiyā māgadhikāya vuddhiyā
karomi dīpantaravāsinaṃ api.

Mặc dầu các nhà thơ xứ Sīhaḷa đã thực hiện bằng ngôn ngữ địa phương, tôi cũng vẫn ghi lại lịch sử xá-lợi răng của đấng Chiến Thắng bằng ngôn ngữ của xứ Magadha vì lợi ích của các cư dân không ở trên đảo.

11/- Jīno yamiddhe amaravhaye pure
kadāci hutvāna sumedhanāmako,
savedavedaṅgavibhāgakovido
mahaddhane vippakulamhi mānavo.

Vào một thuở nọ, đấng Chiến Thắng là thanh niên bà-la-môn tên Sumedha thuộc gia đình bà-la-môn giàu có ở trong thành phố tráng lệ gọi là Amara và là người rành rẽ việc phân tích các kinh Vệ Đà và các phần chi tiết của kinh Vệ Đà.

12/- Ahaṃ hi jātibyasanena pīḷito
jarābhibhūto maraṇena otthaṭo,
sivaṃ padaṃ jātijarādinissaṭaṃ
gavessayissaṃ’ti raho vicintiyā.

Sumedha trong lúc ở nơi thanh vắng đã suy tư rằng: “Ta đây đang bị hành hạ do nỗi bất hạnh của sự sanh, phải trải qua sự già, và bị chế ngự bởi sự chết. Ta cần tầm cầu đạo lộ tốt đẹp thoát khỏi sự sanh, sự già, v.v...”

13/- Anekasaṅkhaṃ dhanadhaññasampadaṃ
patiṭṭhapetvā kapaṇesu duccajaṃ,
anappake pemabharānubandhino
vihāya mitte ca sute ca bandhave.

Chàng trai đã trao lại số lượng lớn về vật sở hữu khó dứt bỏ là tài sản và thóc gạo cho những người khốn khổ rồi đã xa lìa số đông bạn bè, con cái, thân quyến, và các vật thân yêu gần gũi.

14/- Pahāya kāme nikhile manorame
gharābhinikkhamma himācalantike,
mahīdharaṃ dhammikanāmavissutaṃ
upecca nānātarurājibhūsitaṃ.

Sau khi từ bỏ toàn bộ các thú vui trong dục lạc, chàng trai đã rời khỏi gia đình đi đến ngọn núi danh tiếng tên Dhammika được tô điểm với vô số cây cối các loại, ở gần dãy Hi-mã-lạp-sơn.

15/- Manonukūle surarājanimmite
asammigānaṃ agatimhi assame,
nivattacīro ajinakkhipaṃ vahaṃ
jaṭādharo tāpasavesamaggahi.

Vị ấy đã khoác lên bộ dạng của người đạo sĩ khổ hạnh choàng da thú với tóc bện và y phục bằng vỏ cây, ở khu ẩn cư thích hợp không có thú dữ lai vãng do vị Thiên Vương biến hóa thành.

16/- Susaññatatto parimāritindriyo
phalāphalādīhi pavattayaṃ tanuṃ,
gato abhiññāsu ca pāramiṃ vasī
tahiṃ samāpattisukhaṃ avindi so.

Với bản thân khéo thu thúc, các giác quan được hộ trì toàn diện, và cơ thể được nuôi dưỡng bằng nhiều loại trái cây, v.v... vị ấy sống ở nơi ấy tầm cầu sự hướng thượng trong các thắng trí và sự an lạc của thiền định.

17/- Susajjite rammapurādhivāsinā
mahājanenattamanena añjase,
pathappadese abhiyantamattano
aniṭṭhite yeva sumedhatāpaso.

18/- Agādhañeyyodadhipāradassinaṃ
bhavantaguṃ nibbanathaṃ vināyakaṃ,
anekakhīṇāsavalakkhasevitaṃ
kadāci dīpaṅkarabuddhamaddasa.

Khi con đường đã được đám đông dân chúng cư ngụ tại thành phố Ramma trang hoàng sửa soạn với niềm hân hoan, thì khu vực con đường do chính bản thân Sumedha yêu cầu còn chưa được hoàn tất. Vào lúc ấy, đạo sĩ Sumedha đã nhìn thấy đức Phật Dīpaṅkara là vị lãnh đạo đã thành tựu sự chấm dứt của tái sanh, không còn dục vọng, có trí tuệ vô biên, đã đạt đến bờ giải thoát, đang được tháp tùng bởi hàng trăm ngàn bậc Lậu Tận.

19/- Tato sasaṅghassa tilokabhattuno
pariccajitvāna tanumpi jīvitaṃ,
pasārayitvāna jaṭājinādikaṃ
vidhāya setuṃ tanumeva pallale.

Lúc ấy, sau khi dứt bỏ mạng sống và thân xác đến bậc Hộ Trì tam giới và hội chúng (tỳ khưu), đạo sĩ Sumedha đã trải ra bện tóc và các tấm da thú, v.v..., rồi dùng chính thân thể của mình làm thành cây cầu bắc qua bãi lầy.

20/- Anakkamitvā kalalaṃ mahādayo
sabhikkhuko gacchatu piṭṭhiyā iti,
adhiṭṭhahitvāna nipannako tahiṃ
anāthametaṃ tibhavaṃ samekkhiya.

Sau khi đã suy xét về Tam Giới không có người lãnh đạo, Sumedha đã phát nguyện rằng: “Xin Ngài cùng với các vị tỳ khưu tràn đầy lòng bi mẫn hãy bước ở trên lưng, chớ có đi vào bãi lầy,” rồi đã nằm xuống ở nơi ấy.

21/- Dayāya sañcoditamānaso jane
bhavaṇṇavā uddharituṃ dukhaddite,
akāsi sambodhipadassa pattiyā
mahābhinīhāramudaggavikkamo.

Với tâm tràn ngập lòng bi mẫn, vị ấy với sự nỗ lực cao cả đã thực hiện lời phát nguyện lớn lao cho việc chứng đạt đạo lộ của bậc Toàn Giác nhằm đưa chúng sanh đang bị khổ đau đọa đày ra khỏi đại dương của hiện hữu,

22/- Atho viditvā vasino tamāsayaṃ
adāsi so vyākaraṇaṃ mahāmunī,
tato puraṃ tamhi tathāgate gate
sayaṃ vasī sammasi pāramīguṇe.

Và khi biết được ý định ấy của đạo sĩ Sumedha, bậc Đại Hiền Triết ấy đã ban cho lời chú nguyện. Sau đó, đức Như Lai ấy đã đi vào thành phố, còn bản thân vị đạo sĩ đã suy xét về các đức tính của các pháp ba-la-mật.

23/- Tato ca kappānamalīnavikkamo
asaṅkhiye so caturo salakkhake,
tahiṃ tahiṃ jātisu bodhipācane
visuddhasambhāraguṇe apūrayi.

Từ đó trở đi, trong nhiều lần tái sanh ở nơi này nơi khác cho việc làm chín muồi sự giác ngộ trong bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp, đức Bồ Tát với sự nỗ lực không mệt mỏi đã làm tròn đủ các đức hạnh thanh cao và cần thiết.

24/- Athābhijāto tusite mahāyaso
visuddhasambodhipadopaladdhiyā,
udikkhamāno samayaṃ dayādhano
ciraṃ vibhūtimanubhosi sabbaso.

Sau đó, vị có danh tiếng vĩ đại đã sanh lên cõi trời Đẩu Suất cho việc thành tựu đạo lộ thanh tịnh của bậc Toàn Giác. Trong lúc quán xét về thời điểm, đấng Từ Bi đã thọ hưởng niềm vinh quang một cách toàn vẹn và lâu dài.

25/- Sahassasaṅkhādasacakkavāḷato
samāgatānekasurādhipādihi,
udaggudaggehi jinattapattiyā
sagāravaṃ so abhigamma yācito.

Đức Bồ Tát đã được nhiều vị Thiên Vương vô cùng hoan hỷ từ mười ngàn thế giới đi đến và cung kính thỉnh cầu về việc chứng đắc quả vị Phật.

26/- Tato cavitvā kapilavhaye pure
sadā sato sakyakulekaketuno,
ahosi suddhodanabhūmibhattuno
mahādimāyāya mahesiyā suto.

Luôn luôn  trú niệm, đức Bồ Tát sau khi mạng chung từ nơi ấy (cõi trời Đẩu Suất) đã tái sanh làm con trai của hoàng hậu Mahāmāyā và đức vua Suddhodana là ngọn cờ biểu tượng của gia tộc dòng Sākya ở trong thành phố tên Kapila.

27/- Vijātamattova vasundharāya so
patiṭṭhahitvāna disā vilokayi,
tadā ahesuṃ vivaṭaṅganā disā
apūjayuṃ tattha ca devamānusā.

Ngay khi vừa được sanh ra, đức Bồ Tát đã đứng vững ở trên mặt đất nhìn quanh các hướng; khi ấy khoảng không gian ở các phương đều được mở rộng và tại các nơi ấy chư thiên và nhân loại đã bày tỏ lòng tôn kính.

28/- Adhārayuṃ ātapavāraṇādikaṃ
adissamānāva nabhamhi devatā,
padāni so satta ca uttarāmukho
upecca nicchārayi vācamāsabhiṃ.

Chư thiên không nhìn thấy được ở trên không trung đã cầm các lọng che, v.v... Và đức Bồ Tát đã bước đi bảy bước, mặt nhìn hướng bắc, và đã thốt lên lời khẳng quyết.

29/- Yathatthasiddhatthakumāranāmako
mahabbalo yobbanahāriviggaho,
ututtayānucchavikesu tīsu so
’nubhosi pāsādavaresu sampadaṃ.

Đức Bồ Tát có tên là vương tử Siddhattha quả nhiên có sức mạnh vĩ đại, có cơ thể thanh xuân đẹp dáng, và đã thọ hưởng hạnh phúc ở trong ba tòa lâu đài thích hợp với ba mùa tiết trong năm.

30/- Kadāci uyyānapathe jarāhataṃ
tathāturaṃ kālakataṃ ca saṃyamiṃ,
kamena disvāna virattamānaso
bhavesu so pabbajituṃ akāmayi.

Sau đó trong lúc đi thưởng ngoạn, đức Bồ Tát đã lần lượt nhìn thấy một người bị hành hạ bởi sự già, rồi tương tợ như thế người bệnh, và người chết, sau đó là một tu sĩ, nên đã khởi tâm nhờm gớm trong các hiện hữu và đã có ý định xuất gia.

31/- Sapupphadīpādikarehi rattiyaṃ
purakkhato so tidivādhivāsihi,
sachannako kanthakavājiyānato
tato mahākāruṇiko’bhinikkhami.

Trong đêm, được chư thiên trong ba cõi tay cầm đèn và các bông hoa tháp tùng, đấng Đại Bi ấy cùng với Channa và con ngựa Kanthaka là phương tiện di chuyển đã rời khỏi nơi ấy.

32/- Kamena patvāna anomamāpagaṃ
sudhotamuttāphalahārisekate,
patiṭṭhahitvā varamoḷibandhanaṃ
sītāsilūnaṃ gagane samukkhipi.

Lần lượt đức Bồ Tát đã đến được giòng sông Anomā rồi đã đứng ở bờ sông lấp lánh những hạt ngọc trai tinh khiết và đã ném lên không trung búi tóc quý giá đã được cắt ra bằng thanh gươm bén.

33/- Paṭiggahetvā tidasānamissaro
suvaṇnacaṅgotavarena taṃ tadā,
tiyojanaṃ nīlamaṇīhi cetiyaṃ
akāsi cūḷāmaṇimattano pure.

Khi ấy, vị chúa của chư thiên đã nhận lấy vật ấy bằng chiếc hòm vàng rồi đã xây dựng ngôi bảo tháp bằng những viên ngọc bích kích thước ba do-tuần ở thành phố Cūḷāmaṇi của chính bản thân.

34/- Tato ghaṭikārasarojayoninā
samāhaṭaṃ dhārayi cīvarādikaṃ,
atho sakaṃ vatthayugaṃ nabhatthale
pasatthavesaggahaṇo samukkhipi.

Sau đó, đức Bồ Tát đã khoác lên tấm y và các vật dụng khác đã được vị (Phạm Thiên) Ghaṭikāra là người có đóa hoa sen ở rún mang lại. Khi đã mặc vào bộ y tuyệt vời, đức Bồ Tát đã ném hai tấm vải choàng của chính mình vào không trung.

35/- Paṭiggahetvāna tamambujāsano
mahiddhiko bhattibharena codito,
sake bhave dvādasayojanaṃ akā
maṇīhi nīlādihi dussacetiyaṃ.

Vị (Phạm Thiên) Ambujāsana có đại thần lực đã nhận lấy vật ấy và đã bày tỏ tấm lòng ngưỡng mộ, sau đó đã xây dựng ngôi bảo tháp thờ vải choàng có kích thước 12 do tuần bằng những viên ngọc ma-ni màu xanh ở tại cung trời của mình.

36/- Susaññatatto satimā jitindriyo
vinītaveso rasagedhavajjito,
cha hāyanāneva anomavikkamo
mahāpadhānaṃ padahittha dukkaraṃ.

Với bản thân đã khéo được thu thúc, có niệm, các giác quan đã được chế ngự, sở hành đã được huấn luyện, đã buông bỏ các ham muốn trong các dục, và có sự nỗ lực phi thường, đức Bồ Tát đã thể hiện sự nỗ lực lớn lao là việc khó thực hành.

37/- Visākhamāsass’atha puṇṇamāsiyaṃ
upecca mūlaṃ sahajāya bodhiyā,
tiṇāsane cuddasahatthasammite
adhiṭṭhahitvā viriyaṃ nisajji so.

Sau đó vào ngày trăng tròn tháng Vesākha, đức Bồ Tát đã đến bên cội cây Bồ Đề là vật được sanh lên cùng một thời điểm, đã lập nguyện tinh tấn, rồi đã ngồi xuống trên bảo tọa bằng cỏ có kích thước mười bốn cánh tay.

38/- Avattharantiṃ vasudhaṃ ca ambaraṃ
virūpavesaggahaṇena bhiṃsanaṃ,
pakampayanto sadharādharaṃ mahiṃ
jino padose jini māravāhiṇiṃ.

Trong đêm ấy, đấng Chiến Thắng đã khuất phục đội quân của Ma Vương dễ sợ do việc khoác lên bộ dạng khiếp đảm đang bao trùm cả trái đất lẫn bầu trời, đồng thời làm cho trái đất với nhiều núi non sông hồ bị chấn động.

39/- Surāsurabrahmagaṇehi sajjite
jagattaye pupphamayagghikādinā,
pavattamāne suradundubhissare
abujjhi bodhiṃ rajanīparikkhaye.

Khi ấy, các hội chúng chư thiên, A-tu-la, Phạm Thiên đã trang hoàng cả ba cõi với các tràng hoa cao quý, v.v... Và vào lúc đêm tàn khi các hồi trống của chư thiên đang vang dội, Ngài đã thành tựu sự Giác Ngộ.

40/- Tadā pakampiṃsu saselakānanā
sahassasaṅkhādasalokadhātuyo,
agañchi so loṇapayodhi sādutaṃ
mahāvabhāso bhuvanesu patthari.

Khi ấy, mười ngàn thế giới cùng với các núi rừng đã rúng động, biển mặn đã trở nên có vị ngọt, và ánh sáng rực rỡ đã bao trùm trái đất.

41/- Labhiṃsu andhā vimale vilocane
suṇiṃsu sadde badhirāpi jātiyā,
lapiṃsu mūgā vacanena vaggunā
cariṃsu khelaṃ padasā’va paṅgulā.

Những người mù đã có được những đôi mắt sáng, thậm chí những người điếc bẩm sinh đã nghe được âm thanh, những người câm đã thốt lên giọng nói êm dịu, những người què đã tự động di chuyển những bước chân.

42/- Bhaviṃsu khujjā ujusommaviggahā
sikhīpi nibbāyi avīci-ādisu,
apāgamuṃ bandhanatopi jantavo
khudādikaṃ petabhavā apakkami.

Những người gù trở nên có thân hình ngay thẳng xinh đẹp, thậm chí lửa thiêu ở các địa ngục avīci, v.v... cũng đã tắt lịm, luôn cả các loài hữu tình cũng thoát khỏi sự giam cầm, và loài ngạ quỷ đã thoát khỏi cảnh đói khát, v.v...

43/- Samiṃsu rogavyasanāni pāṇinaṃ
bhayaṃ tiracchānagate na pīḷayi,
janā ahesuṃ sakhilā piyaṃvadā
pavattayuṃ koñcanadaṃ mataṅgajā.

Bệnh tật và bất hạnh của chúng sanh đã được lắng dịu, nỗi sợ hãi đã không còn hành hạ các loài thú, nhân loại đã trở nên thân thiện nói lời hòa ái, các con voi đã rống lên tiếng rống của mình.

44/- Hayā ca hesiṃsu pahaṭṭhamānasā
nadiṃsu sabbā sayameva dundubhī,
raviṃsu dehābharaṇāni pāṇinaṃ
disā pasīdiṃsu samā samantato.

Và các con ngựa đã hí vang lộ vẻ mừng rỡ, tất cả các chiếc trống đã tự động vang rền, các đồ trang sức ở thân thể chúng sanh đã khua tiếng rổn rẻn, các địa phương ở xung quanh đều được thái bình, yên ổn.

45/- Pavāyi mando sukhasītamāruto
pavassi meghopi akālasaṃbhavo,
jahiṃsu ākāsagatiṃ vihaṅgamā
mahiṃ samubbhijjajalaṃ samuṭṭhahi.

Làn gió dịu dàng mát mẻ nhè nhẹ đã thổi qua, thậm chí đã có cơn mưa sái mùa đổ xuống, loài chim đã không còn bay nháo nhác ở không trung, và nước triều đã tràn lên trên mặt đất.

46/- Asandamānā’va ṭhitā savantiyo
nabhe virociṃsu asesajotiyo,
bhavā ahesuṃ vivaṭā samantato
janassa nāsuṃ cavanupapattiyo.

Các giòng nước đã dừng lại ngưng chảy, vô số tia sáng đã chiếu sáng ở bầu trời, các cõi ở xung quanh đã hiển hiện ra, sự tử vong và sanh sản đã không xảy ra ở nhân loại.

47/- Samekkhataṃ nāvaraṇā nagādayo
pavāyi gandho api dibbasammato,
dumā ahesuṃ phalapupphadhārino
ahosi channo kamalehi aṇṇavo.

Các hòn núi, v.v... đã ở trong tầm nhìn không còn bị che khuất, hương thơm dành riêng cho cõi trời cũng đã tỏa lên, cây cối trở nên trĩu nặng hoa trái, biển cả đã tràn ngập bởi các đóa hoa sen.

48/- Thalesu toyesu ca pupphamānakā
vicittapupphā vikasiṃsu sabbathā,
nirantaraṃ pupphasugandhavuṭṭhiyā
ahosi sabbaṃ vasudhambarantaraṃ.

Có những bông hoa tươi tắn ở khắp đất liền và biển cả, các bông hoa đủ loại đã nở rộ khắp các nơi, và còn có cơn mưa các bông hoa thơm ngát rơi liên tục ở khoảng giữa trái đất và bầu trời.

49/- Nisajja pallaṅkavare tahiṃ jino
sukhaṃ samāpattivihārasambhavaṃ,
tato’nubhonto sucirābhipatthitaṃ
dināni satteva atikkamāpayi.

Đấng Chiến Thắng đã ngồi xuống trên bảo tọa quý báu ở tại nơi ấy, sau đó đã trải qua bảy ngày thọ hưởng niềm an lạc sanh lên do việc an trú vào quả thành tựu đã được mong mỏi thời gian dài lâu.

50/- Samuppatitvā gaganaṅgaṇaṃ tato
padassayitvā yamakaṃ mahāmuni,
sa pāṭihīraṃ tidivādhivāsinaṃ
jinattane saṃsayitaṃ nirākari.

Kế đó, bậc Đại Hiền Triết đã ngự đến cõi trời và đã phô diễn song thông tại nơi ấy. Trong bản thể của vị Phật, Ngài đã xua tan nỗi nghi ngờ cho rằng thần thông là năng lực của chư thiên.

51/- Atho taritvāna jayāsanassa so
ṭhito va pubbuttarakaṇṇanissito,
dināni sattāni misena cakkhunā
tamāsanaṃ bodhitaruṃ ca pūjayī.

Rồi Ngài đã đi đến đứng ở góc phía đông bắc của bảo tọa chiến thắng và đã cúng dường đến bảo tọa tức là cội cây Bồ Đề ấy bằng đôi mắt không chớp nháy trong bảy ngày.

52/- Athantarāḷe maṇicaṅkame jino
ṭhitappadesassa ca āsanassa ca,
mahārahe devavarābhinimmite
dināni satteva akāsi caṅkamaṃ.

Sau đó, đấng Chiến Thắng đã thực hiện việc kinh hành trong bảy ngày ở đường kinh hành bằng ngọc ma-ni vô cùng cao quý được chư thiên biến hóa ra theo ước muốn tại khoảng giữa vị trí đã đứng và ngôi bảo tọa.

53/- Tato disāyaṃ aparāya bodhiyā
upāvisitvā ratanālaye jino,
samantapaṭṭhānanayaṃ vicintayaṃ
dināni satteva sa vītināmayi.

Sau đó, đấng Chiến Thắng ấy đã đến ngồi xuống ở ngôi nhà bằng ngọc quý[3] về phía tây của cội Bồ Đề suy nghiệm về toàn bộ hệ thống duyên sanh khởi và đã trải qua trọn bảy ngày.

54/- Viniggato satthusarīrato tadā
jutippabandho paṭibandhavajjito,
pamāṇasuññāsu ca lokadhātusu
samantato uddhamadho ca patthari.

Khi ấy, từ thân thể của bậc Đạo Sư đã phát ra vầng hào quang thật là rực rỡ bao trùm khắp các cõi thế giới không gian ở xung quanh, ở bên trên lẫn bên dưới.

55/- Vaṭassa mūle ajapālasaññino
sukhaṃ phusanto pavivekasambhavaṃ,
vināyako satta vihāsi vāsare
anantadassī surarājapūjito.

Bậc Lãnh Đạo là người có sự hiểu biết vô biên được các vị thiên vương tôn kính, trong lúc đạt đến trạng thái an lạc của sự giải thoát, đã trải qua bảy ngày ở cội cây si có tên là Ajapāla.[4]

56/- Vihāsi mūle mucalindasākhino
nisajja bhogāvalimandirodare
vikiṇṇapupphe mucalindabhogino
samādhinā vāsarasattakaṃ jino.

Sau khi ngồi xuống ở cội cây Mucalinda có mái che được tạo thành bởi cơ thể của rồng chúa Mucalinda và có bông hoa rải rắc, đấng Chiến Thắng đã an trú vào thiền định bảy ngày.

57/- Dume pi rājāyatane samādhinā
vihāsi rattindivasattakaṃ muni,
sahassanetto atha dantapoṇakaṃ
mukhodakañcāpi adāsi satthuno.

Bậc Hiền Triết cũng đã an trú vào thiền định bảy ngày đêm ở cội cây Rājāyatana. Sau đó, vị thần có ngàn mắt[5] đã cúng dường đến bậc Đạo Sư nước rúc miệng và tăm xỉa răng.

58/- Tato mahārājavarehi ābhataṃ
silāmayaṃ pattacatukkamekakaṃ,
vidhāya manthaṃ madhupiṇḍikaṃ tahiṃ
paṭiggahetvāna sa vāṇijāhaṭaṃ.

Kế đến, sau khi nhập chung lại thành một bình bát làm bằng đá từ bốn bình bát đã được các vị Đại Thiên Vương mang lại, Ngài đã chứa đựng ở trong ấy bánh bột gạo và mật viên được các người thương buôn mang lại rồi mới thọ lãnh.

59/- Katannakicco saraṇesu te ubho
patiṭṭhapetvāna tapassu-bhallike,
adāsi tesaṃ abhipūjituṃ sakaṃ
parāmasitvāna siraṃ siroruhe.

Sau khi việc thọ thực được hoàn tất, Ngài đã an trú cả hai người ấy là Tapassu và Bhallika vào các sự nương nhờ, sau đó đã sờ lên đầu của mình rồi cho họ các sợi tóc để chiêm bái.

60/- Vaṭassa mūle ajapālasaññino
sahampatibrahmavarena yācito,
janassa kātuṃ varadhammasaṅgahaṃ
agañchi bārāṇasimekako muni.

Do được vị Phạm Thiên Sahampati thỉnh cầu ở tại cội cây si có tên là Ajapāla, đấng Hiền Triết một mình đã đi Bārāṇasī để hoằng dương Giáo Pháp cao quý đến chúng sanh.

61/- Gantvā so dhammarājā vanamisipatanaṃ saññatānaṃ niketaṃ
pallaṅkasmiṃ nisinno tahimavacalitaṭṭhānasampāditamhi,
āsāḷhe puṇṇamāyaṃ sitaruciruciyā jotite cakkavāḷe
devabrahmādikānaṃ duritamalaharaṃ vattayī dhammacakkaṃ.

Bậc Pháp Vương ấy sau khi đi đến khu rừng Isipatana là chỗ cư ngụ của những vị hành pháp khắc kỷ, sau đó đã ngồi xuống ở tại nơi ấy trong tư thế kiết già trú vào tư thế bất động trong bầu không gian được chiếu rọi bởi ánh trăng sáng trắng ngà vào ngày rằm tháng Āsāḷha,[6] rồi đã vận chuyển bánh xe Pháp (có công năng) xua tan các điều ô nhiễm và tội lỗi của chư thiên, Phạm thiên, v.v...

62/- Sutvā saddhammamaggaṃ tibhuvanakuharābhogavitthārikaṃ taṃ
aññākoṇḍaññanāmadvijamunipamukhāṭṭhārasabrahmakoṭī,
aññāsuṃ maggadhammaṃ parimitarahite cakkavāḷe uḷāro
obhāso pātubhūto sapadi bahuvidhaṃ āsi accherakaṃ ca.

Sau khi lắng nghe Chánh Pháp cao quý ấy được phổ biến rộng khắp đến tận cùng khắp cả ba cõi, mười tám koṭi[7] Phạm Thiên đứng đầu là vị hiền triết dòng bà-la-môn tên Aññākoṇḍañña đã thấu hiểu Đạo Lộ và Giáo Pháp. Ngay lập tức có vô số điều kỳ diệu đủ các loại đã xảy ra và có làn ánh sáng vĩ đại đã xuất hiện ở cõi không gian vô tận.

Paṭhamo paricchedo.
(Đây là) chương thứ nhất.

--ooOoo--

DUTIYO PARICCHEDO
CHƯƠNG THỨ NHÌ

1/- Tato patthāya so satthā vinento devamānuse,
bodhito phussamāsamhi navame puṇṇamāsiyaṃ.

2/- Laṅkamāgamma gaṅgāya tīre yojanavitthate,
mahānāgavanuyyāne āyāmena tiyojane.

Thời gian sau đó, trong lúc giáo huấn chư thiên và nhân loại, rồi vào ngày rằm của tháng Phussa là tháng thứ chín tính từ lúc giác ngộ, bậc Đạo Sư ấy đã đi đến (đảo) Laṅkā nơi bờ sông Gaṅgā tại khu lâm viên Mahānāga[8] có (kích thước) chiều rộng một do tuần[9] và chiều dài ba do tuần.

3/- Yakkhānaṃ samitiṃ gantvā ṭhatvāna gagane tahiṃ,
vātandhakāravuṭṭhīhi katvā yakkhe bhayaddite.

Sau khi đi đến nơi tụ hội của các dạ-xoa, đức Phật đã đứng ở trên hư không tại nơi ấy tạo ra mưa gió và bóng tối khiến các dạ-xoa sanh lòng sợ hãi.

4/- Laddhā’bhayehi yakkhehi tehi dinnāya bhūmiyā,
cammakhaṇḍaṃ pasāretvā nisīditvāna taṅkhaṇe.

Khi các dạ-xoa đã đạt được sự không còn hãi sợ, đức Phật đã trải ra tấm da lót ngồi ở trên phần đất đã được các dạ-xoa ấy dâng hiến, rồi lập tức ngồi xuống.

5/- Cammakhaṇḍaṃ padittaggijālamālāsamākulaṃ,
iddhiyā vaḍḍhayitvāna yāva sindhuṃ samantato.

Ngài đã dùng thần thông làm cho tấm da lót ngồi được bao phủ bởi mạng lưới lửa cháy bùng lan rộng ra đến tận vùng ven bờ biển.

6/- Javena sindhuvelāya rāsibhūte nisācare,
giridīpamidhānetvā patiṭṭhāpesi te tahiṃ.

Khi các dạ-xoa vội vã tụ tập thành đám đông ở ven bờ biển, đức Phật đã di chuyển hòn đảo Giri (Giridīpa) đến nơi ấy và đã đưa các dạ-xoa lên trú ngụ ở trên hòn đảo ấy.

7/- Desayitvā jino dhammaṃ tadā devasamāgame,
bahunnaṃ pāṇakoṭīnaṃ dhammābhisamayaṃ akā.

Sau đó, đấng Chiến Thắng đã thuyết giảng Giáo Pháp đến hội chúng chư thiên và đã khiến cho vô số koṭi chúng sanh hiểu được Giáo Pháp.

8/- Mahāsumanadevassa sele sumanakūṭake,
datvā namassituṃ kese agā jetavanaṃ jino.

Ở tại đỉnh núi đá Sumana, đấng Chiến Thắng đã cho Thiên nhân Mahāsumana các sợi tóc để phụng thờ rồi đã ngự đến Jetavana (Kỳ Viên).

9/- Patiṭṭhapetvā te satthunisinnāsanabhūmiyaṃ,
indanīlamayaṃ thūpaṃ karitvā so apūjayi.

Vị ấy đã tôn trí các sợi tóc ở trên mặt đất tại chỗ bậc Đạo Sư đã ngồi xuống sau đó đã xây dựng ngôi bảo tháp bằng ngọc bích và thờ phụng.

10/- Nissāya maṇipallaṅkaṃ pabbataṇṇavavāsino,
disvā yuddhatthike nāge cūḷodaramahodare.

11/- Bodhito pañcame vasse cittamāse mahāmuni,
uposathe kāḷapakkhe nāgadīpamupāgami.

Khi nhìn thấy các loại sơn tộc và thủy tộc, các loài rồng Cūḷodara và Mahodara[10] gây chiến tranh với nhau vì lý do ngôi bảo tọa bằng ngọc ma-ni, bậc Đại Hiền Triết đã đi đến Nāgadīpa[11] vào ngày Uposatha thuộc hạ huyền của tháng Citta vào năm thứ năm tính từ lúc giác ngộ.

12/- Tadā samiddhi sumano devo jetavane ṭhitaṃ,
attano bhavanaṃ yeva rājāyatanapādapaṃ.

13/- Indanīladdikūṭaṃ va gahetvā tuṭṭhamānaso,
dhārayitvā sahāgañchi chattaṃ katvāna satthuno.

Lúc bấy giờ, thiên nhân Sumana có thần thông khởi tâm hoan hỷ đã nhổ lên cây Rājāyatana chính là chỗ ngụ của bản thân đang mọc tại Jetavana (Kỳ Viên) có hình dáng như là đỉnh núi bằng ngọc bích, rồi cầm lấy làm dù che cho đấng Đạo Sư và cùng đi với Ngài.

14/- Ubhinnaṃ nāgarājūnaṃ vattamāne mahāhave,
nisinno gagane nātho māpayittha mahātamaṃ.

Trong lúc trận chiến của hai vị Long Vương đang xảy ra, đấng Lãnh Đạo, ngồi ở trên không trung, đã làm cho bầu trời trở nên tối mịt.

15/- Ālokaṃ dassayitvā’tha assāsetvāna bhogino,
sāmaggikaraṇaṃ dhammaṃ abhāsi purisāsabho.

Sau đó, vị Chúa Tể của nhân loại đã làm cho ánh sáng xuất hiện, đã khuyên nhủ các con rồng, rồi đã thuyết Pháp về việc thực hiện sự hòa hợp.

16/- Asītikoṭiyo nāgā acalambudhivāsino,
patiṭṭhahiṃsu muditā sīlesu saraṇesu ca.

Tám mươi koṭi con rồng là cư dân ở núi non và biển cả đã hoan hỷ an trú vào các giới cấm và các sự nương nhờ (quy y Tam Bảo).

17/- Datvāna maṇipallaṅkaṃ satthuno bhujagādhipā,
tatth’ āsīnaṃ mahāvīraṃ annapānehi tappayuṃ.

Vị Long Vương đã dâng bảo tọa bằng ngọc ma-ni đến đấng Đạo Sư. Và khi đấng Đại Hùng đang ngồi tại chỗ ấy, vị Long Vương đã làm cho Ngài được hài lòng với các loại thức ăn và nước uống.

18/- Patiṭṭhapetvā so tattha rājāyatanapādapaṃ,
pallaṅkaṃ tañca nāgānaṃ adāsi abhipūjituṃ.

Sau khi đã an trú các con rồng tại nơi ấy, Ngài đã ban cho họ cây Rājāyatana và ngôi bảo tọa ấy để thờ phụng.

19/- Bodhito aṭṭhame vasse vesākhe puṇṇamāsiyaṃ,
maṇi-akkhikanāmena nāgindena nimantito.

Vào ngày rằm tháng Vesākha[12] của năm thứ tám kể từ khi giác ngộ, Ngài đã được vị Long Vương tên Maṇi-akkhika thỉnh mời.

20/- Nāgarājassa tass’ eva bhavanaṃ sādhusajjitaṃ,
kalyāṇiyaṃ pañcabhikkhusatehi saha āgami.

Ngài đã cùng với năm trăm vị tỳ khưu đi đến cung điện đã được trang hoàng đẹp đẽ của chính vị Long Vương ấy ở tại Kalyāṇi.

21/- Kalyāṇicetiyaṭṭhāne kate ratanamaṇḍape,
mahārahamhi pallaṅke upāvisi narāsabho.

Vị Chúa Tể của nhân loại đã ngồi xuống trên bảo tọa vô cùng quý giá có mái che bằng châu báu đã được thực hiện tại địa điểm của ngôi bảo điện Kalyāṇi.

22/- Dibbehi khajjabhojjehi sasaṅghaṃ lokanāyakaṃ,
santappesi phaṇindo so bhujaṅgehi purakkhato.

Vị Long Vương ấy dẫn đầu các con rồng đã làm hài lòng đấng Chúa Tể của thế gian cùng với hội chúng bằng những vật thực cứng mềm của thiên giới.

23/- Desayitvāna saddhammaṃ saggamokkhasukhāvahaṃ,
so satthā sumane kūṭe dassesi padalañchanaṃ.

Sau khi đã giảng giải Chánh Pháp đưa đến cõi trời và an lạc của sự giải thoát, bậc Đạo Sư ấy đã thị hiện dấu vết của bàn chân ở trên đỉnh (núi đá) Sumana.[13]

24/- Tato pabbatapādamhi sasaṅgho so vināyako,
divā vihāraṃ katvāna dīghavāpimupāgami.

Sau đó, đấng Lãnh Đạo ấy cùng với hội chúng đã sống trọn ngày ở chân hòn núi rồi đã đi đến Dīghavāpi.

25/- Thūpaṭṭhāne tahiṃ buddho sasaṅgho ’bhinisīdiya,
samāpattisamubbhūtaṃ avindi asamaṃ sukhaṃ.

Nơi ấy ở tại địa điểm của ngôi bảo tháp, đức Phật cùng với hội chúng đã ngồi xuống và thọ hưởng sự phát sanh thiền quả là sự an lạc không gì sánh bằng.

26/- Mahābodhitaruṭṭhāne samādhiṃ appayī jino,
mahāthūpappadese ca viharittha samādhinā.

Đấng Chiến Thắng đã tiến hành thiền định tại địa điểm của cội Đại Bồ Đề và đã an trú vào thiền định ở khu vực của ngôi Đại Bảo Tháp.

27/- Thūpārāmamhi thūpassa ṭhāne jhānasukhena so,
sabhikkhusaṅgho sambuddho muhuttaṃ vītināmayi.

Bậc Chánh Đẳng Giác ấy cùng với hội chúng tỳ khưu đã trải qua thời gian với sự an lạc của thiền tại vị trí của ngôi bảo tháp ở Tu Viện Bảo Tháp (Thūpārāma).

28/- Silāthūpappadesamhi ṭhatvā kālavidū muni,
deve samanusāsitvā tato jetavanaṃ agā.

Ở tại khu vực của ngôi Bảo Tháp bằng đá (Silāthūpa), đấng Hiền Triết, là bậc thông suốt thời điểm, sau khi giáo huấn chư thiên rồi từ đó đã ngự đến Jetavana (Kỳ Viên).

29/- Agiddho lābhasakkāre asayhaṃ avamānanaṃ,
sahanto kevalaṃ sabbalokanittharaṇatthiko.

Là người mong mỏi tế độ hết thảy chúng sanh và không tham đắm trong lợi lộc và danh vọng, Ngài đã chịu đựng mọi điều báng bổ khó lòng nhẫn nại.

30/- Saṃvaccharāni ṭhatvāna cattāḷīsañca pañca ca,
desayitvāna suttādiṃ navaṅgaṃ satthusāsanaṃ.

Sau khi đã tồn tại và thuyết giảng Phật Pháp gồm chín thể loại[14] là: sutta, v.v... trong bốn mươi lăm năm,

31/- Tāretvā bhavakantārā jane saṅkhyātivattino,
buddhakiccāni sabbāni niṭṭhāpetvāna cakkhumā.

Bậc Hữu Nhãn đã tiếp độ vô số chúng sanh vượt qua khỏi khu rừng của hiện hữu và đã hoàn thành mọi phận sự của vị Phật.

32/- Kusinārāpure raññaṃ mallānamupavattane,
sālavanamhi yamakasālarukkhānamantare.

Rồi ở khoảng giữa của hai cây sālā (Long Thọ) ở trong rừng cây sālā (tên là) Upavattana của các đức vua thuộc dòng họ Malla ở trong thành Kusinārā,

33/- Mahārahe supaññatte mañce uttarasīsakaṃ,
nipanno sīhaseyyāya vesākhe puṇṇamāsiyaṃ.

vào ngày trăng tròn tháng Vesākha, Ngài đã nằm xuống đầu hướng về phía Bắc trong tư thế của loài sư tử ở trên chiếc giường vô cùng cao quý đã khéo được chuẩn bị.

34/- Desetvā paṭhame yāme mallānaṃ dhammamuttamaṃ,
Subhaddaṃ majjhime yāme pāpetvā amataṃ padaṃ.

Vào canh đầu (của đêm), Ngài đã thuyết giảng Giáo Pháp tối thượng đến các người dân xứ Malla. Vào canh giữa, Ngài đã tế độ Subhadda đạt đến đạo lộ Bất Tử.

35/- Bhikkhū pacchimayāmamhi dhammakkhandhe asesake,
saṅgayha ovaditvāna appamādapadena ca.

Vào canh cuối, Ngài đã tổng hợp lại toàn bộ các Pháp uẩn và đã giáo huấn các tỳ khưu về chi phần “Không Dễ Duôi.”

36/- Paccūsasamaye jhānasamāpattivihārato,
uṭṭhāya parinibbāyi sesopadhivivajjito.

Lúc trời hừng sáng, Ngài đã xuất khỏi sự an trú trong thiền chứng và đã buông bỏ thân mạng[15] còn dư sót viên tịch Niết Bàn.

37/- Mahīkampādayo āsuṃ tadā acchariyāvahā,
pūjā visesā vattiṃsu devamānusakā bahū.

Khi ấy đã xảy ra nhiều điều kỳ diệu như là sự rúng động của trái đất, v.v... Vô số chư thiên và nhân loại đã thể hiện các sự cúng dường đặc biệt.

38/- Parinibbāṇasuttante vuttānukkamato pana,
pūjāviseso viññeyyo icchantehi asesato.

Vả lại, những người có lòng mong mỏi nên biết rõ các sự cúng dường đặc biệt đã được tuần tự thuật lại không thiếu sót ở bài kinh Parinibbāna.[16]

39/- Ahatehi ca vatthehi veṭhetvā paṭhamaṃ jinaṃ,
veṭhayitvāna kappāsapicunā vihatena ca.

Trước tiên, họ đã quấn quanh (nhục thân) đấng Chiến Thắng bằng nhiều lớp vải mới rồi bọc lại bằng lớp bông vải mịn.

40/- Evaṃ pañcasatakkhattuṃ veṭhayitvāna sādhukaṃ,
pakkhipitvā suvaṇṇāya telapuṇṇāya doṇiyā.

Sau khi đã được quấn lại một cách khéo léo năm trăm lượt như thế, họ đã đặt vào trong chiếc hòm bằng vàng chứa đầy dầu.

41/- Vīsaṃ hatthasatubbedhaṃ gandhadārūhi saṅkhataṃ,
āropayiṃsu citakaṃ mallānaṃ pamukhā tadā.

Khi ấy, các vị lãnh đạo dân chúng xứ Malla đã đưa (chiếc hòm) lên giàn hỏa thiêu được thiết lập bằng các loại gỗ thơm có độ cao hai ngàn cánh tay.[17]

42/- Mahākassapatherena dhammarāje avandite,
citakaṃ mā jalitthāti devādhiṭṭhānato pana.

Tuy nhiên, do quyết định của chư thiên rằng: “Khi trưởng lão Mahākassapa chưa đảnh lễ đấng Pháp Vương, giàn hỏa thiêu chớ có bốc cháy.”

43/- Pāmokkhā mallarājūnaṃ vāyamantā p’ anekadhā,
citakaṃ taṃ na sakkhiṃsu gāhāpetuṃ hutāsanaṃ.

Mặc dầu các vị lãnh đạo trong số các vị vua của xứ Malla đã nỗ lực bằng nhiều cách vẫn không thể làm cho giàn hỏa thiêu ấy phát lên ngọn lửa.

44/- Mahākassapatherena adhiṭṭhānena attano,
vaṭṭhādīni mahādoṇiṃ citakañca mahārahaṃ.

45/- Dvidhā katvāna nikkhamma sakasīse patiṭṭhitā,
vanditā satthuno pādā yathāṭhāne patiṭṭhitā.

Do nguyện lực của chính bản thân trưởng lão Mahākassapa, hai bàn chân của đấng Đạo Sư đã tách hai các lớp vải, v.v...,chiếc hòm lớn, và giàn hỏa thiêu quý giá rồi đã vươn ra ngoài đặt trên đầu của vị trưởng lão. Và sau khi được vị ấy đảnh lễ, hai bàn chân đã trở về lại vị trí cũ.

46/- Tato devānubhāvena pajjalittha citānalo,
na masi satthudehassa daḍḍhass’ āsi na chārikā.

Sau đó, do nhờ oai lực của chư thiên giàn hỏa thiêu đã bốc cháy. Thi thể của bậc Đạo Sư sau khi đã được thiêu đốt không có sót lại tro than gì.

47/- Dhātuyo avasissiṃsu muttābhā kañcanappabhā,
adiṭṭhānena buddhassa vippakiṇṇā anekadhā.

Các xá-lợi đã được lưu lại lấp lánh như ngọc trai có ánh sáng màu vàng, và được phân tán khắp các nơi do nguyện lực của đức Phật.

48/- Uṇhīsaṃ akkhakā dve ca catasso dantadhātuyo,
iccete dhātuyo satta vippakiṇṇā na satthuno.

Đây là bảy phần xá-lợi của đấng Đạo Sư không phân tán: “Xá-lợi xương sọ, hai xá-lợi xương vai, và bốn xá-lợi răng.”

49/- Ākāsato patitvāpi uggantvāpi mahītalā,
samantā jaladhārāyo nibbāpesuṃ citānalaṃ.

Hơn nữa, các nguồn nước ở xung quanh, thậm chí từ trên không trung rơi xuống và ở dưới mặt đất phun lên, đã dập tắt giàn hỏa thiêu.

50/- Therassa sāriputtassa antevāsī mahiddhiko,
sarabhunāmako thero pabhinnapaṭisambhido.

51/- Gīvādhātuṃ gahetvāna citato mahiyaṅgaṇe,
patiṭṭhāpetvā thūpamhi akā kañcukacetiyaṃ.

Vị trưởng lão tên Sarabhu có đại thần lực và tuệ phân tích là đệ tử của trưởng lão Sāriputta đã nhận lấy xá-lợi xương cổ từ nơi giàn hỏa thiêu rồi đã tôn trí trong ngôi bảo tháp ở Mahiyaṅgaṇa[18] và đã xây dựng ngôi bảo điện tên Kañcuka.

52/- Khemavhayo kāruṇiko khīṇasaṃyojano muni,
citakāto tato vāmadāṭhādhātuṃ samaggahi.

Vị hiền triết tên Khema, có hạnh từ bi đã đoạn tận các điều ràng buộc, đã nhặt lấy xá-lợi răng bên trái tại giàn hỏa thiêu ở nơi ấy.

53/- Aṭṭhannaṃ atharājūnaṃ dhātu-atthāya satthuno,
uppannaṃ viggahaṃ doṇo sametvāna dvijuttamo.

Sau đó, Doṇa vị đứng đầu các Bà-la-môn đã dàn xếp cuộc gây gỗ sanh khởi giữa tám vị vua vì lòng mong muốn xá-lợi của đấng Đạo Sư.

54/- Katvāna aṭṭhakoṭṭhāse bhājetvā sesadhātuyo,
adāsi aṭṭharājūnaṃ taṃ taṃ nagaravāsinaṃ.

Vị ấy đã phân chia các xá-lợi còn lại và đã thực hiện tám phần rồi đã trao từng phần cho cư dân thành phố của tám vị vua.

55/- Haṭṭhatuṭṭhā gahetvāna dhātuyo tā narādhipā,
gantvā sake sake raṭṭhe cetiyāni akārayuṃ.

Các vị vua ấy đã mừng rỡ nhận lấy các xá-lợi rồi đã trở về và xây dựng các ngôi bảo tháp ở tại xứ sở của mỗi người.

56/- Ekā dāṭhā surindena ekā gandhāravāsihi,
ekā bhujaṅgarājūhi āsi sakkatapūjitā.

Một xá-lợi răng đã được tôn vinh và cúng dường bởi vị Thiên Vương, một bởi các cư dân Càn-thát-bà (Gandhara), và một bởi các vị Long Vương.

57/- Dantadhātuṃ tato khemo attanā gahitaṃ adā,
dantapure kaliṅgassa brahmadattassa rājino.

Sau đó, (vị hiền triết) Khema đã tặng xá-lợi răng do bản thân nhặt lấy đến đức vua Brahmadatta của xứ Kaliṅga ở tại Dantapura.

58/- Desayitvāna so dhammaṃ bhetvā sabbakudiṭṭhiyo,
rājānaṃ taṃ pasādesi aggamhi ratanattaye.

Vị ấy đã giảng giải Giáo Pháp, đã đả phá mọi tư tưởng ngoại đạo, và đã tạo niềm tin ở vị vua ấy vào ngôi Tam Bảo cao quý.

59/- Ajjhogāḷho munindassa dhammāmatamahaṇṇavaṃ,
so narindo pavāhesi malaṃ macchariyādikaṃ.

Đắm mình vào biển cả mênh mông là Giáo Pháp Bất Tử của bậc Hiền Triết hàng đầu, vị vua ấy đã rủ bỏ điều ô nhiễm như là sự bỏn xẻn, v.v...

60/- Pāvussako yathā megho nānāratanavassato,
dāḷiddiyanidāghaṃ so nibbāpesi naruttamo.

Vị vua ấy đã dập tắt sự thiếu thốn của nghèo khó ví như đám mây vào mùa mưa đang đổ xuống trận mưa gồm nhiều loại châu báu.

61/- Suvaṇṇakhacitālambamuttājālehi sobhitaṃ,
kūṭāgārasatākiṇṇaṃ taruṇādiccasannibhaṃ.

62/- Nānāratanasobhāya duddikkhaṃ cakkhumūsanaṃ,
yānaṃ saggāpavaggassa pasādātisayāvahaṃ.

63/- Kārayitvāna so rājā dāṭhādhātunivesanaṃ,
dhātupīṭhañca tatth’ eva kāretvā ratanujjalaṃ.

Vị vua ấy đã cho xây dựng ngôi điện thờ xá-lợi răng, rực rỡ với những mạng lưới ngọc trai treo xen kẻ với vàng, được vây quanh bởi hàng trăm ngôi nhà mái nhọn, trông tợ như mặt trời mới mọc, thu hút ánh nhìn và làm chóa mắt bởi sự rực rỡ của nhiều loại châu báu khác nhau. Ngôi điện thờ xá-lợi là cội nguồn dồi dào đem lại niềm tin và là phương tiện đưa đến cõi trời và Niết Bàn. Chính tại nơi ấy, đức vua đã cho kiến thiết bệ thờ xá-lợi rạng ngời châu báu.

64/- Tahiṃ samappayitvāna dāṭhādhātuṃ mahesino,
pūjāvatthūhi pūjesi rattindivamatandito.

Tại nơi ấy, đức vua đã an vị và tôn vinh xá-lợi răng của đấng Hiền Triết vĩ đại với các vật dụng cúng dường ngày đêm không ngừng nghỉ.

65/- Iti so sañcinitvāna puññasambhārasampadaṃ,
cajitvā mānusaṃ dehaṃ saggakāyamalaṅkari.

Sau khi đã tích lũy sự thành đạt trong các công việc phước thiện, đức vua đã từ bỏ xác thân nhân loại và đã điểm trang bằng vóc dáng thiên nhân.

66/- Anujāto tato tassa kāsirājavhayo suto,
rajjaṃ laddhā amaccānaṃ sokasallamapānudi.

Sau đó, người con trai kế vị đức vua tên là Kāsirāja đã thành đạt vương quyền và đã nhổ lên mũi tên sầu muộn của các quan đại thần.

67/- Pupphagandhādinā dantadhātuṃ tamabhipūjiya,
niccaṃ maṇippadīpehi jotayi dhātumandiraṃ.

Vị ấy đã tôn vinh xá-lợi ấy bằng các bông hoa, hương thơm, v.v... và luôn thắp sáng điện thờ xá-lợi bằng những cây đèn làm bằng ngọc ma-ni.

68/- Icc’ evamādiṃ so rājā katvā kusalasañcayaṃ,
jahitvāna nijaṃ dehaṃ devindapuramajjhagā.

Sau khi đã tích lũy các thiện pháp như thế, v.v... vị vua ấy đã từ bỏ thân xác của mình và đã sanh vào giữa thành phố của Thiên Vương.

69/- Sunando nāma rājindo ānandajanano sataṃ,
tass’ atrajo tato āsi buddhasāsanamāmako.

Kế đến, con trai của vị ấy là đức vua tên Sunanda đã là người mến mộ Phật Pháp và là nguồn tạo nên sự an vui một cách bền vững.

70/- Sammānetvāna so dantadhātuṃ ñeyyantadassino,
mahatā bhattiyogena agā devasahavyataṃ.

Sau khi đã tôn vinh xá-lợi răng của đấng Toàn Tri với lòng thành cao cả, đức vua đã đạt được sự cộng trú với chư thiên.

71/- Tato paraṃ ca aññe pi bahavo vasudhādhipā,
dantadhātuṃ munindassa kamena abhipūjayuṃ.

Kế đó, nhiều vị vua khác nữa cũng đã tuần tự cúng dường xá-lợi răng của bậc hiền triết hàng đầu.

72/- Guhasīvavhayo rājā duratikkamasāsano,
tato rajjasiriṃ patvā anugaṇhi mahājanaṃ.

Tiếp đến, đức vua tên Sīva với hiệu lệnh khó thể phản kháng đã đạt được sự vinh quang của vương quyền và đã hộ trì toàn thể dân chúng.

73/- Saparatthānabhiññe so lābhāsakkāralolupe,
māyāvino avijjandhe niganṭhe samupaṭṭhahi.

Đức vua đã nâng đỡ các đạo sĩ lõa thể ngu si và tăm tối, xảo quyệt, tham đắm lợi danh, không biết rõ mục đích của bản thân và người khác.

74/- Vassāratte yathā cando mohakkhandhena āvaṭo,
nāsakkhi guṇaraṃsīhi jalituṃ so narāsabho.

Tương tợ như mặt trăng bị mây mờ che khuất trong đêm mưa, các ánh hào quang của đức hạnh đã không thể soi sáng vị vua ấy.

75/- Dhammamaggā apete pi paviṭṭhe diṭṭhikānanaṃ,
tasmiṃ sādhupathaṃ aññe nātivattiṃsu pāṇino.

Trong khi đức vua xa rời con đường Chánh Pháp và lạc vào khu rừng tà kiến, các chúng sanh khác cũng đã không đạt đến đạo lộ thánh thiện.

76/- Hematoraṇamālāhi dhajehi kadalīhi ca,
pupphagghiyehi ’nekehi sajjetvā nāgarā puraṃ.

Các cư dân thành phố đã trang hoàng thành phố với các cổng chào bằng vàng và các tràng hoa, với các lá cờ, biểu ngữ, và vô số bông hoa đắt giá.

77/- Maṅgalatthutighosehi naccagītādikehi ca,
hemarūpiyapupphehi gandhacuṇṇādikehi ca.

78/- Pūjento munirājassa dāṭhādhātuṃ kudācanaṃ,
akaṃsu ekanigghosaṃ saṃvaṭṭambudhisannibhaṃ.

Trong lúc các cư dân thành phố đang tôn vinh xá-lợi răng của đức Phật với những lời cầu nguyện tốt lành, với các điệu múa lời ca, v.v... với các bông hoa bằng vàng và bạc, với các loại phấn thơm, v.v..., đột nhiên họ đã tạo nên một tiếng ồn tợ như tiếng gào thét của biển cả vào thời điểm hoại diệt (của thế giới).

79/- Ugghāṭetvā narindo so pāsāde sīhapañjaraṃ,
passanto janamaddakkhi pūjāvidhiparāyaṇaṃ.

Vị quân vương ấy đã mở ra cánh cửa sổ ở tòa lâu đài, và trong lúc quan sát đã nhìn thấy dân chúng đang tiến hành các nghi thức cúng dường.

80/- Athāmaccasabhāmajjhe rājā vimhitamānaso,
kotūhalākulo hutvā idaṃ vacanamabravī.

Khi ấy, với tâm trí ngạc nhiên đức vua đã trở nên kích động, bối rối, và đã nói lời này ở giữa tập thể các vị quan đại thần:

81/- Accherakaṃ kimetannu kīdisaṃ pāṭihāriyaṃ,
mametaṃ nagaraṃ kasmā chaṇanissitakaṃ iti.

“Điều kỳ diệu này là gì vậy? Là loại thần thông gì đây? Tại sao thành phố này của ta lại có liên quan đến lễ hội này?”

82/- Tato amacco ācikkhi medhāvī buddhamāmako,
rājino tassa sambuddhānubhāvamavijānato.

Khi ấy, viên quan đại thần là bậc trí tuệ và mến mộ đức Phật đã trình bày cho vị vua ấy là người không biết gì đến oai lực của đấng Toàn Giác.

83/- Sabbābhibhussa buddhassa taṇhāsaṅkhayadassino,
esā dhātu mahārāja khemattherena āhaṭā.

“Tâu đại vương, đó là xá-lợi của đức Phật là vị chúa tể của tất cả và là vị đã nhận thấy được sự chấm dứt của ái dục; xá-lợi ấy đã được đem lại bởi trưởng lão Khema.

84/- Taṃ dhātuṃ pūjayitvāna rājāno pubbakā idha,
kalyāṇamitte nissāya devakāyamupāgamuṃ.

Các vị hoàng đế trước đây của xứ này sau khi cúng dường xá-lợi ấy và nương tựa vào bạn lành đã đạt được bản thể của chư thiên.

85/- Nāgarāpi ime sabbe samparāyasukhatthikā,
pūjayanti samāgamma dhātuṃ taṃ satthuno iti.

Thậm chí tất cả cư dân thành phố này là những người tầm cầu sự an lạc trong ngày vị lai cũng tụ hội lại và cúng dường xá-lợi ấy của bậc Đạo Sư.”

86/- Tassāmaccassa so rājā sutvā dhammasubhāsitaṃ,
dulladdhimalamujjhitvā pasīdi ratanattaye.

Sau khi lắng nghe lời thuyết giảng Giáo Pháp khéo léo của viên quan đại thần ấy, vị vua ấy đã dứt bỏ các điều ô nhiễm do tà kiến sai trái và đã đặt niềm tin vào Tam Bảo.

87/- Dhātupūjaṃ karonto so rājā acchariyāvahaṃ,
titthiye dummane kāsi sumane c’ etare jane.

Vị vua ấy trong lúc cúng dường xá-lợi là nguồn đem lại các điều kỳ diệu đã không còn hoan hỷ vào các du sĩ ngoại đạo và có thiện cảm với các người khác.

88/- Ime ahirikā sabbe saddhādiguṇavajjitā,
thaddhā saṭhā ca duppaññā saggamokkhavibandhakā.

“Tất cả những người này vô liêm sĩ, không có đức hạnh như là lòng tin, v.v..., lại còn bướng bỉnh, dối trá, ác tuệ; họ là những kẻ xa lìa cõi trời và sự giải thoát.”

89/- Iti so cintayitvāna guhasīvo narādhipo,
pabbājesi sakā raṭṭhā nigaṇṭhe te asesake.

Sau khi đã suy nghĩ như thế, đức vua Guhasīva ấy đã trục xuất toàn bộ các đạo sĩ lõa thể ấy ra khỏi vương quốc của mình.

90/- Tato nigaṇṭhā sabbepi ghatasittānalā yathā,
kodhaggijalitā gañchuṃ puraṃ pāṭaliputtakaṃ.

Sau đó, bị nung nấu bởi ngọn lửa tức giận tợ như bơ lỏng bị lửa đốt bắn tung tóe, tất cả các đạo sĩ lõa thể đã đi đến thành phố Pāṭaliputta.

91/- Tattha rājā mahātejo jambudīpassa issaro,
paṇḍunāmo tadā āsi anantabalavāhano.

Ở tại nơi ấy, vào lúc bấy giờ có vị vua tên Paṇḍu có oai lực vĩ đại là chúa tể của Jambudīpa[19] và có binh lực vô cùng hùng hậu.

92/- Kodhandhā ’tha nigaṇṭhā te sabbe pesuññakārakā,
upasaṅkamma rājānaṃ idaṃ vacanamabravuṃ.

Khi ấy, bị mù quáng bởi sự tức giận, tất cả những người đạo sĩ lõa thể ấy là những kẻ đâm thọc đã đi đến gặp đức vua và đã nói lời này:

93/- Sabbadevamanussehi vandanīye mahiddhike,
sivabrahmādayo deve niccaṃ tumhe namassatha.

“Bệ hạ luôn tôn kính các vị trời như là thần Siva, đấng Brahma, v.v... có đại oai lực và xứng đáng sự đảnh lễ của tất cả chư thiên và nhân loại.

94/- Tuyhaṃ sāmantabhūpālo guhasīvo panādhunā,
nindanto tādise deve chavaṭṭhiṃ vandate iti.

Tuy nhiên, hiện nay vị vua xứ lân cận là Guhasīva lại chê bai các vị trời như thế và còn đảnh lễ xương người chết nữa.”

95/- Sutvāna vacanaṃ tesaṃ rājā kodhavasānugo,
sūraṃ sāmantabhūpālaṃ cittayānam ath’ abravī.

Sau khi nghe lời nói của họ, đức vua bị tác động bởi cơn sự giận dữ khi ấy đã nói với Cittayāna là vị anh hùng và là vua của xứ lân cận rằng:

96/- Kaliṅgaraṭṭhaṃ gantvāna guhasīvamidhānaya,
pūjitaṃ taṃ chavaṭṭhiṃ ca tena rattindivaṃ iti.

Hãy đi đến vương quốc Kaliṅga và đem Guhasīva về đây cùng với xương người chết ấy đang được hắn cúng dường ngày đêm.

97/- Cittayāno tato rājā mahatiṃ caturaṅginiṃ,
sannayhitvā sakaṃ senaṃ purā tamhābhinikkhami.

Sau đó, đức vua Cittayāna đã củng cố đội binh hùng hậu gồm bốn loại binh chủng của mình và đã rời khỏi thành phố ấy.

98/- Gantvāna so mahīpālo senaṅgehi purakkhato,
dantapurassāvidūre khandhāvāraṃ nivesayi.

Vị vua ấy dẫn đầu các đoàn quân đã ra đi và đã đóng trại binh ở không xa thành Dantapura.

99/- Sutvā āgamanaṃ tassa kaliṅgo so mahīpati,
gajindapābhatādīhi taṃ tosesi narādhipaṃ.

Hay tin việc tiến đến của vị vua ấy, đức vua xứ Kaliṅga ấy đã làm hài lòng vị vua ấy với các quà biếu như là voi, và châu ngọc, v.v...

100/- Hitajjhāsayataṃ ñatvā guhasīvassa rājino,
dantapuraṃ cittayāno saddhiṃ senāya pāvisi.

Biết được ý định tốt đẹp của đức vua Guhasīva, Cittayāna cùng với đoàn quân đã đi vào thành Dantapura.

101/- Pākāragopuraṭṭālapāsādagghikacittitaṃ,
dānasālāhi so rājā samiddhaṃ puramaddasa.

Vị vua ấy đã nhìn thấy thành phố có các tường thành, tháp canh, dinh thự, lầu đài, tranh vẽ đắt giá, và được hưng thịnh với những phước xá, v.v...

102/- Tato so sumano gantvā paviṭṭho rājamandiraṃ,
guhasīvassa ācikkhi paṇḍurājassa sāsanaṃ.

Sau đó, vị ấy với thiện tâm đã đi vào cung điện của đức vua và đã thông báo cho Guhasīva mệnh lệnh của đức vua Paṇḍu.

103/- Sutvāna sāsanaṃ tassa dāruṇaṃ duratikkamaṃ,
pasannamukhavaṇṇo’va cittayānaṃ samabravī.

Nghe được mệnh lệnh khắt khe và khó thể kháng cự của vị ấy, đức vua Guhasīva vẫn giữ vẻ mặt hòa hiếu và đã nói với Cittayāna rằng:

104/- Sabbalokahitatthāya maṃsanettādidānato,
anappakappe sambhāre sambharitvā atandito.

“Từ việc bố thí thịt, mắt, v.v... vì lợi ích của toàn bộ thế gian, đức Phật đã tích lũy không mệt mỏi các yếu tố cần thiết trong vô số kiếp.

105/- Jetvā namucino senaṃ patvā sabbāsavakkhayaṃ,
anāvaraṇañāṇena sabbadhammesu pāragu.

Sau khi chiến thắng đội quân của Ma Vương và đạt đến sự tận diệt tất cả các lậu hoặc, Ngài là vị thông suốt tất cả các pháp nhờ vào trí tuệ không còn bị che lấp.

106/- Diṭṭhadhammasukhassādamagaṇetvāna attano,
dhammanāvāya tāresi janataṃ yo bhavaṇṇavā.

Không màng đến sự thọ hưởng an lạc trong hiện tại của bản thân, Ngài đã đưa nhân loại vượt qua đại dương của hiện hữu nhờ vào con thuyền Giáo Pháp.

107/- Devātidevaṃ taṃ buddhaṃ saraṇaṃ sabbapāṇinaṃ,
jano hi avajānanto addhā so vañcito iti.

Nhưng cũng có người không biết đến đức Phật ấy là đấng cao cả hơn cả chư thiên và là nơi nương nhờ của tất cả chúng sanh, đương nhiên người ấy bị thiệt thòi.”

108/- Iccevamādiṃ sutvāna so rājā satthuvaṇṇanaṃ,
ānandassuppabandhehi pavedesi pasannataṃ.

Sau khi lắng nghe lời ca ngợi về bậc Đạo Sư như thế, vị vua ấy đã thể hiện niềm tin bằng những giòng lệ vì mừng rỡ.

109/- Guhasīvo pasannaṃ taṃ cittayānaṃ udikkhiya,
tena saddhiṃ mahagghaṃ taṃ agamā dhātumandiraṃ.

Nhận thấy vị vua Cittayāna ấy đã có được niềm tin, Guhasīva đã cùng với vị ấy đi đến ngôi điện thờ vô cùng quý giá có thờ xá-lợi.

110/- Haricandanasambhūtadvārabāhādikehi ca,
pavāḷavāḷamālāhi lambamuttālatāhi ca.

111/- Indanīlakavāṭehi maṇikiṅkiṇikāhi ca,
sovaṇṇakaṇṇamālāhi sobhitaṃ maṇithūpikaṃ.

Ngôi bảo tháp bằng ngọc ma-ni được rạng rỡ với những tràng hoa bằng vàng, với những chuông nhỏ bằng ngọc ma-ni, với những cánh cửa sổ bằng ngọc bích, với những chuỗi ngọc trai treo ngang, với những tràng hoa san hô, và với những khung cửa lớn được thực hiện bằng gỗ trầm hương màu vàng, v.v...

112/- Uccaṃ veluriyubbhāsichadanaṃ makarākulaṃ,
dhātumandiramaddakkhi ratanujjalapīṭhakaṃ.

Vị ấy đã nhìn thấy ngôi điện thờ xá-lợi với bệ thờ sáng rỡ châu báu có chạm các hình cá kiếm, ở bên trên có mái che rực sáng bằng ngọc quý.

113/- Tato setātapattassa heṭṭhā ratanacittitaṃ,
disvā dhātukaraṇḍañca tuṭṭho vimhayamajjhagā.

Sau đó, khi nhìn thấy chiếc hòm đựng xá-lợi có chạm trổ châu báu đặt ở bên dưới chiếc lọng trắng, vị ấy đã vô cùng kinh ngạc và mừng rỡ.

114/- Tato kaliṅganātho so vivaritvā karaṇḍakaṃ,
mahītale nihantvāna dakkhiṇaṃ jānumaṇḍalaṃ.

Kế đến, vị vua xứ Kaliṅga ấy đã mở chiếc hòm ra rồi quỳ đầu gối chân phải xuống ở trên mặt đất.

115/- Añjaliṃ paggahetvāna guṇe dasabalādike,
saritvā buddhaseṭṭhassa akāsi abhiyācanaṃ.

Rồi đã chắp tay tưởng niệm đến các ân đức của đức Phật Chí Tôn như là mười năng lực, v.v... và đã thốt lên lời thỉnh cầu rằng:

116/- Gaṇḍambarukkhamūlamhi tayā titthiyamaddane,
yamakaṃ dassayantena pāṭihāriyamabbhutaṃ.

“Trong lúc hàng phục các du sĩ ngoại đạo, Ngài đã thị hiện song thông kỳ diệu tại gốc cây Gaṇḍamba.

117/- Pubbakāyādinikkhantajalānalasamākulaṃ,
cakkavāḷaṅgaṇaṃ katvā janā sabbe pasāditā.

Ngài đã thực hiện bầu trời vũ trụ được bao phủ bởi nước và lửa phun ra từ phần trước của cơ thể, v.v..., và hết thảy dân chúng đã có niềm tin.

118/- Desetvāna tayo māse abhidhammaṃ sudhāsinaṃ,
nagaraṃ otarantena saṅkassaṃ tāvatiṃsato.

Sau khi đã thuyết giảng Vi Diệu Pháp cho chư thiên trong ba tháng, Ngài đã rời cõi trời Đạo Lợi và ngự xuống thành Saṅkassa.

119/- Chattacāmarasaṅkhādigāhakehi anekadhā,
brahmadevāsurādīhi pūjitena tayā pana.

Hơn nữa, Ngài đã được các vị Phạm Thiên, chư thiên, A-tu-la, v.v... cầm dù lọng, phất trần, tù và vỏ ốc, v.v... tôn vinh bằng nhiều hình thức.

120/- Ṭhatvāna maṇisopāṇe vissakammābhinimmite,
lokavivaraṇaṃ nāma dassitaṃ pāṭihāriyaṃ.

Khi đứng ở cầu thang bằng ngọc ma-ni do Vissakamma hóa hiện ra, Ngài đã thị hiện thần thông tên là Lokavivaraṇa (mở ra cho chúng sanh thấy toàn thể thế giới).

121/- Tathā ’nekesu ṭhānesu munirāja tayā puna,
bahūni pāṭihīrāni dassitāni sayambhunā.

Thưa đấng Mâu Ni Vương, tương tợ như thế vô số thần thông cũng đã được Ngài là đấng Tạo Hóa thị hiện ở tại nhiều địa điểm.

122/- Pāṭihāriyamajjāpi saggamokkhasukhāvahaṃ,
passantānaṃ manussānaṃ dassanīyaṃ tayā iti.

Ngay cả hiện nay, thần thông vốn là nguồn đưa đến an lạc cõi trời và giải thoát cho những người có niềm tin cũng nên được Ngài thị hiện.”

123/- Abbhuggantvā gagaṇakuharaṃ candalekhābhirāmā
vissajjentī rajatadhavalā raṃsiyo dantadhātu,
dhūpāyantī sapadi bahudhā pajjalantī muhuttaṃ
nibbāyantī nayanasubhagaṃ pāṭihīraṃ akāsi.

Xá-lợi răng đã bay lên trên khoảng trống trên không trung đồng thời phóng ra những tia hào quang sáng trắng màu bạc hòa hợp với tia sáng của mặt trăng, rồi lập tức phun khói ra khắp nơi và phát cháy trong chốc lát, sau đó lịm tắt đi; xá-lợi răng đã thực hiện điều kỳ diệu làm hài lòng những ánh mắt.

124/- Accheraṃ taṃ paramaruciraṃ cittayāno narindo
disvā haṭṭho ciraparicitaṃ diṭṭhijālaṃ jahitvā,
gantvā buddhaṃ saraṇamasamaṃ sabbaseṇīhi saddhiṃ
aggaṃ puññaṃ pasavi bahudhā dhātusammānanāya.

Sau khi chứng kiến điều kỳ diệu vô cùng tuyệt vời ấy, đức vua Cittayāna đã trở nên mừng rỡ và đã từ bỏ màng lưới tà kiến thâm nhiễm bấy lâu, sau đó đã nương tựa vào đức Phật không gì sánh bằng và đã cùng với toàn bộ quân lính tạo nên điều phước báu cao quý bằng sự cung kính xá-lợi với nhiều phương thức.

Dutiyo paricchedo.
(Đây là) chương thứ nhì.

--ooOoo--


[1] Vào khoảng năm 1211 sau công nguyên.

[2] Tức là nước Sri Lanka ngày nay (còn được gọi là Tích Lan theo âm của tên gọi cũ là Ceylon).

[3] Ratanālaya = ratana + ālaya.

[4] Ajapāla nghĩa là “người chăn dê.” Trong Vinaya Texts (bản dịch Tạng Luật), Rhys Davids and Hermann Oldenberg đã dẫn chứng tài liệu và giải thích sở dĩ cội cây si này có tên như trên vì hai lý do: 1. Các người chăn dê dùng bóng mát của cây si (nigrodha) để nghỉ ngơi nên được gọi là cây si của những người chăn dê. 2. Cây si đã được một đứa bé chăn dê trồng trong thời gian Bồ-tát Siddhattha hành khổ hạnh sáu năm.

[5] Danh hiệu của vị thiên vương Inda (Indra).

[6] Tương đương rằm tháng 6 âm lịch Việt Nam.

[7] 1 koṭi là 10 triệu; 18 koṭi là 180 triệu.

[8] Địa điểm này có tên là Mahiyangana, một trong 16 thánh tích ở Sri Lanka.

[9] 1 do-tuần = 4 gāvuta, tương đương 16 km.

[10] Không xác định được tên các chủng loại này; phân tích theo từ ngữ cūḷodara (cūḷa+udara = có bao tử nhỏ, bụng thon) và mahodara (mahā+udara = có bao tử lớn, bụng bự).

[11] Một hòn đảo ở phía cực bắc của nước Sri Lanka.

[12] Tương đương rằm tháng 4 âm lịch Việt Nam.

[13] Địa điểm này gọi là Sri Pāda, tên thường gọi là Adam’s Peak.

[14] Về thể (aṅga) có chín thể là sutta, geyya, veyyākaraṇa, gāthā, udāna, itivuttaka, jātaka, abbhūtadhamma, vedalla. Xin xem phần phân tích câu kệ 28 chương 1 của bản dịch Saddhammasaṅgaha - Diệu Pháp Yếu Lược để có giải thích chi tiết về vấn đề này.

[15] upadhi.

[16] Mahāparinibbānasutta – Kinh Đại Niết Bàn, Dīghanikāya II - Kinh Trường Bộ 2.

[17] 1 hattha = 0.5 mét. Như vậy 2000 hattha = 1000 mét.

[18] Trong ba lần đức Phật thăm viếng xứ Tích Lan thì Mahiyaṅgaṇa là địa điểm đức Phật đã ngự đến trong chuyến đi lần thứ nhất.

[19] Bán đảo Ấn Độ ngày nay.

-ooOoo-

Đầu trang | Mục lục | 01 | 02 | 03

Chân thành cám ơn Tỳ khưu Indacanda đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 05-2005)


[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 11-05-2005