Dathavamsa
BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with VU-Times font


THERAVĀDA

SỬ LIỆU VỀ XÁ-LỢI RĂNG PHẬT
DĀṬHĀVAṂSA

Nguyên tác Pāli: Dhammakitti Rājaguru Thera
Lời tiếng Việt: Indacanda Bhikkhu (Trương đình Dũng)

SRI JAYAWARDHANARAMAYA
COLOMBO – 2005


 Lưu ý: Đọc với phông chữ VU-Times (Viet-Pali Unicode)

-ooOoo-

TATIYO PARICCHEDO
CHƯƠNG THỨ BA

 1/- Tato kaliṅgādhipatissa tassa so cittayāno paramappito,
taṃ sāsanaṃ paṇḍunarādhipassa ñāpesi dhīro duratikkamanti.

Sau đó, vị Cittayāna ấy vô cùng hoan hỷ và khôn khéo đã thông báo cho đức vua xứ Kaliṅga mệnh lệnh khó mà xao lãng ấy của đức vua Paṇḍu.

2/- Rājā tato dantapuraṃ dhajehi pupphehi dhūpehi ca toraṇehi,
alaṅkaritvāna mahāvitānanivāritādiccamarīcijālaṃ.

Kế đến, đức vua đã cho trang hoàng thành phố Dantapura có các mái che khổng lồ để ngăn lại quầng ánh nắng của mặt trời với cờ xí, bông hoa, khói hương, và cổng chào.

3/- Assuppabandhāvutalocanehi purakkhato negamanāgarehi,
samubbahanto sirasā nijena mahārahaṃ dhātukaraṇḍakaṃ taṃ.

Rồi đã đội cái hòm xá-lợi vô cùng quý giá ấy bằng đầu của chính mình đi phía trước dân chúng ở các thôn làng và thị trấn có các cặp mắt đang tuôn trào những giòng lệ.

4/- Samussitodārasitātapattaṃ saṅkhodarodātaturaṅgayuttaṃ,
rathaṃ navādiccasamānavaṇṇamāruyha cittattharaṇābhirāmaṃ.

Sau đó, đã bước lên chiếc xe ngựa có màu sắc tợ như mặt trời lúc bình minh với chiếc lọng trắng tuyệt hảo đã được căng lên và đã được thắng vào con ngựa màu trắng như lòng vỏ ốc.

5/- Anekasaṅkhehi balehi saddhiṃ velātivattambudhisannibhehi,
nivattamānassa bahujjanassa vināpi dehaṃ manasānuyāto.

Cùng với những đoàn quân số lượng vô số kể trông như biển cả tràn vào bờ, và không tính đến số đông người đang quay trở lại, tuy thân (trở về) nhưng tâm đã đi theo.

6/- Susanthataṃ sabbadhivālukāhi susajjitaṃ puṇṇaghaṭādikehi,
pupphābhikiṇṇaṃ paṭipajja dīghaṃ suvitthataṃ pāṭaliputtamaggaṃ.

Đức vua đã đi trên con đường phố của Pāṭaliputta dài và rộng được lót cát cẩn thận ở khắp mọi nơi, được rải rắc với những bông hoa, và khéo được chưng bày với những chum đầy (nước), v.v...

7/- Kaliṅganātho kusumādikehi naccehi gītehi ca vāditehi,
dine dine addhani dantadhātuṃ pūjesi saddhiṃ vanadevatāhi.

Hàng ngày ở trên đường đi, đức vua của xứ Kaliṅga cùng với chư thiên ở rừng đã cúng dường xá-lợi răng bằng những điệu vũ, lời ca, âm nhạc, và các bông hoa, v.v...

8/- Suduggamaṃ sindhumahīdharehi kamenamaddhānamatikkametvā,
ādāya dhātuṃ manujādhinātho agā puraṃ pāṭaliputtanāmaṃ.

Sau khi tuần tự vượt qua đoạn đường dài có những sông ngòi và núi non rất khó đi lại, đức vua đã đã rước xá-lợi đi vào thành phố tên Pāṭaliputta.[1]

9/- Rājādhirājo ’tha sabhāya majjhe disvāna taṃ vītabhayaṃ visaṅkaṃ,
kaliṅgarājaṃ paṭighābhibhūto abhāsi pesuññakare nigaṇṭhe.

Khi ấy, vị vua lãnh tụ của các vị vua đã nhìn thấy ở giữa đám đông đức vua xứ Kaliṅga ấy đã hết sợ hãi và không còn hoài nghi nên đã nổi cơn giận dữ nói với các đạo sĩ lõa thể là những kẻ đâm thọc rằng:

10/- Deve jahitvāna namassanīye chavaṭṭhimetena namassitaṃ taṃ,
aṅgārarāsimhi sajotibhūte nikkhippa khippaṃ dahathādhuneti.

“Sau khi từ bỏ chư thiên xứng đáng được cung kính, người này lại tôn kính xương của người chết. Giờ đây, hãy ném vật ấy vào đống than đang cháy rực và thiêu đốt ngay lập tức.”

11/- Pahaṭṭhacittā va tato nigaṇṭhā rājaṅgaṇe te mahatiṃ gabhīraṃ,
vītaccikaṅgārakarāsipuṇṇaṃ aṅgārakāsuṃ abhisaṅkhariṃsu.

Sau đó, các đạo sĩ lõa thể ấy với tâm ý vui mừng đã chuẩn bị ở giữa khuôn viên hoàng cung cái hố than lớn và sâu chất đầy than hừng không còn lửa ngọn.

12/- Samantato pajjalitāya tāya sajotiyā roruvabheravāya,
mohandhabhūtā atha titthiyā te taṃ dantadhātuṃ abhinikkhipiṃsu.

Kế đó, các du sĩ ngoại đạo ấy vốn ngu si và mù quáng đã ném xá-lợi răng ấy vào đống lửa đang rực lửa ở xung quanh ghê rợn như là địa ngục Roruva.

13/- Tassānubhāvena tam aggirāsiṃ bhetvā sarojaṃ rathacakkamattaṃ,
samantato uggatareṇujālamuṭṭhāsi kiñjakkhabharābhirāmaṃ.

Do oai lực của xá-lợi, có đóa hoa sen hình dáng cỡ bánh xe ngựa đã xẻ đôi đống lửa ấy và vươn lên. Đóa hoa ấy có lớp phấn lấm tấm ở xung quanh và xinh xắn nhờ những tua nhụy.

14/- Tasmiṃ khaṇe paṅkajakaṇṇikāya patiṭṭhahitvā jinadantadhātu,
kundāvadātāhi pabhāhi sabbā disā pabhāsesi pabhassarāhi.

Vào giây phút ấy, xá-lợi răng của đấng Chiến Thắng đã ngự lên trên đài sen và chiếu rọi khắp mọi phương với những tia sáng giống như màu trắng của hoa nhài.

15/- Disvāna taṃ acchariyaṃ manussā pasannacittā ratanādikehi,
sampūjayitvā jinadantadhātuṃ sakaṃ sakaṃ diṭṭhimavossajiṃsu.

Sau khi nhìn thấy điều kỳ diệu ấy, dân chúng khởi tâm tín thành đã cúng dường xá-lợi răng của đấng Chiến Thắng bằng những châu báu, v.v... và đã dứt bỏ tà kiến của bản thân mỗi người.

16/- So paṇḍurājā pana diṭṭhijālaṃ cirānubaddhaṃ apariccajanto,
patiṭṭhapetvā’dhikaraṇyametaṃ kūṭena ghātāpayi dantadhātuṃ.

Tuy nhiên, đức vua Paṇḍu ấy trong khi không từ bỏ màng lưới tà kiến đã bị tiêm nhiễm bấy lâu lại còn đặt xá-lợi răng ấy ở trên cái đe rồi ra lệnh dùng búa nghiền nát vật ấy.

17/- Tassaṃ nimuggādhikaraṇyamesā upaḍḍhabhāgena ca dissamānā,
pubbācalaṭṭho va sudhāmarīci jotesi raṃsīhi disā samantā.

Dầu được nhìn thấy đã bị lún vào cái đe ấy một nửa phần, xá-lợi ấy đã chiếu sáng các phương xung quanh với các hào quang trông như ánh nắng mặt trời ở ngọn núi hướng đông.

18/- Disvānubhāvaṃ jinadantadhātuyā āpajji so vimhayamaggarājā,
eko ’tha issāpasuto nigaṇṭho taṃ rājarājānamidaṃ avoca.

Sau khi nhìn thấy năng lực của xá-lợi răng của đấng Chiến Thắng, vị vua tối cao ấy đã trở nên kinh ngạc. Khi ấy, một đạo sĩ lõa thể sanh lòng ganh tỵ đã nói với vị vua lãnh tụ của các vị vua điều này:

19/- Rāmādayo deva janaddanassa nānāvatārā bhuvane ahesuṃ,
tassekadeso ca idaṃ chavaṭṭhi no cenubhāvokathamīdisoti.

“Tâu bệ hạ, vị Janaddana[2] có nhiều sự giáng trần khác nhau ở thế gian như là Rāmā, v.v..., và xương người chết này là một phần của vị ấy; nếu không làm sao lại có năng lực như thế này?”

20/- Addhā manussattamupāgatassa devassa pacchā tidivaṃ gatassa,
dehekadeso ṭhapito hitatthametanti saccaṃ vacanaṃ bhaveyya.

(Lời của đức vua) “‘Đối với vị đã đạt đến bản thể nhân loại và sau đó đã đi đến cõi trời của chư thiên, một phần thân thể của vị ấy đương nhiên đã được lưu lại; việc này nhằm đem lại sự lợi ích,’ lời nói này có thể là sự thật.

21/- Saṃvaṇṇayitvāna guṇe pahūte nārāyaṇassassa mahiddhikassa,
nimuggamettādhikaraṇyametaṃ sampassato me bahi nīharitvā.

Các người đã ca ngợi vô số đức hạnh của vị Nārāyaṇa có đại thần lực ấy, vậy hãy lấy ra khỏi cái đe vật đã bị lún vào cho trẫm xem kỹ.

22/- Sampādayitvāna mahājanānaṃ mukhāni paṅkeruhasundarāni,
yathicchitaṃ gaṇhatha vatthujātaṃ iccāha rājā mukhare nigaṇṭhe.

Các người hãy làm cho các khuôn mặt của dân chúng tươi đẹp như những đóa hoa sen và hãy cầm lấy vật ấy theo như ước muốn đi,” đó là lời đức vua đã nói với các đạo sĩ lõa thể lắm mồm.

23/- Te titthiyā viṇhusuraṃ guṇehi vicittarūpehi abhitthavitvā,
toyena siñciṃsu saṭhā tathāpi ṭhitappadesā na calittha dhātu.

Các du sĩ ngoại đạo ấy đã ca ngợi vị thần Visnu có nhiều đức hạnh dưới những hình thức khác nhau, rồi những kẻ xảo trá đã rưới nước lên. Dẫu làm như thế, xá-lợi cũng không di chuyển khỏi chỗ đã được đặt vào.

24/- Jigucchamāno atha te nigaṇṭhe so dhātuyā nīharaṇe upāyaṃ,
anvesamāno vasudhādhinātho bheriṃ carāpesi sake puramhi.

Khi ấy, trong lúc khinh thường các đạo sĩ lõa thể ấy và trong lúc tìm kiếm cách thức để lấy xá-lợi ra, vị chúa của trái đất đã cho nổi trống trong thành phố của mình rằng:

25/- Nimuggametthādhikaraṇyamajja yo dhātumetaṃ bahi nīhareyya,
laddhāna so issariyaṃ mahantaṃ rañño sakāsā sukhamessatīti

“Hôm nay, ở nơi đây người nào có thể lấy ra bên ngoài xá-lợi này đã bị lún vào cái đe sẽ được ban thưởng quyền uy cao cả và sẽ đạt đến sự hạnh phúc ở bên cạnh đức vua.”

26/- Sutvāna taṃ bheriravaṃ uḷāraṃ puññatthiko buddhabale pasanno,
tasmiṃ pure seṭṭhisuto subhaddo pavekkhi rañño samitiṃ pagabbho.

Ở trong thành phố ấy, Subhadda con trai nhà đại phú là người tầm cầu phước báu và có niềm tin vào oai lực của đức Phật đã nghe được tiếng trống hùng hồn ấy và đã can đảm đi đến nơi hội họp của đức vua.

27/- Tamaggarājaṃ atha so namitvā sāmājikānaṃ hadayaṅgamāya,
bhāsāya sabbaññuguṇappabhāvaṃ vaṇṇesi sārajjavimuttacitto.

Sau đó, khi đã cúi chào vị vua lãnh tụ ấy, người ấy với tâm tư không chút e ngại đã ca ngợi về chân giá trị đức hạnh của đấng Toàn Giác cho các thành viên trong cuộc hội họp bằng lời nói từ trái tim:

28/- Bhūmiṃ kiṇitvā mahatā dhanena manoramaṃ jetavanaṃ vihāraṃ,
yo kārayitvāna jinassa datvā upaṭṭhahī taṃ catupaccayehi.

“Người đã mua đất bằng số tài sản khổng lồ, đã cho xây dựng tu viện Jetavana xinh đẹp rồi dâng lên đấng Chiến Thắng, và đã hộ độ Ngài với bốn món vật dụng,[3]

29/- Anāthapiṇḍippadaseṭṭhiseṭṭho so diṭṭhadhammo papitāmaho me,
tilokanāthe mama dhammarāje tumhedhunā passatha bhattibhāraṃ.

vị Anāthapiṇḍika ấy là nhà đại phú đứng đầu các nhà đại phú, là cố nội của tôi, và đã chứng được Pháp. Giờ đây, các vị hãy xem xét hành động hy sinh ở nơi vị chúa tể của tam giới là đấng Pháp Vương của tôi.”

30/- Itthaṃ naditvāna pahūtapañño katvāna ekaṃsamathuttarīyaṃ,
mahītalaṃ dakkhiṇajānukena āhacca baddhañjaliko avoca.

Kế đến, sau khi đã công bố lời ấy, vị có trí tuệ bao la đã đắp thượng y một bên vai và đã quỳ đầu gối bên phải ở trên mặt đất, chắp tay lại nói rằng:

31/- Chaddantanāgo savisena viddho sallena yo lohitamakkhitaṅgo,
chabbaṇṇaraṃsīhi samujjalante chetvāna luddāya adāsi dante.

“Ngài khi là Long Tượng Chaddanta dầu bị tên độc bắn xuyên và có thân hình đầm đìa máu me vẫn cắt đứt cặp ngà chiếu sáng hào quang sáu màu cho đến người thợ săn.[4]

32/- Sasopi hutvāna visuddhasīlo ajjhattadānābhirato dvijāya,
yo dajji deham pi sakaṃ nipacca aṅgārarāsimhi bubhukkhitāya.

Ngay cả khi sanh làm con thỏ có giới hạnh trong sạch cũng đã hoan hỷ với việc bố thí thân mạng nên đã cho đi thân thể của mình đã được nướng ở đống than hừng đến người bà-la-môn đói ăn.

33/- Yo bodhiyā bāhiravatthudānā atittarūpo sivirājaseṭṭho,
adāsi cakkhūni pabhassarāni dvijāya jiṇṇāya acakkhukāya.

Vì sự giác ngộ, Ngài khi là vị vua hàng đầu tên Sivi có trạng thái không được thỏa mãn với sự bố thí các vật ngoại thân nên đã bố thí đôi mắt lóng lánh đến người bà-la-môn già cả mù lòa.

34/- Yo khantivādīpi kalāburāje chedāpayante pi sahatthapādaṃ,
pariplutaṅgo rudhire titikkhi mettāyamāno yasadāyake’va.

Chí đến khi là Khantivādī, trong lúc bị vua Kalābu ra lệnh cặt đứt tay chân, với cơ thể đang run rẩy và đầm đìa máu me Ngài vẫn khởi tâm từ ái đến những kẻ đã đem đến sự quang vinh (cho mình).

35/- Yo dhammapālo api sattamāsajāto paduṭṭhe janake sakamhi,
kārāpayante asimālakammaṃ cittaṃ na dūsesi patāparāje.

Ngài khi là Dhammapāla dầu chỉ được sanh ra bảy tháng vẫn không làm nhiễm ô tâm trí đối với đức vua Patāpa là người cha ruột trong cơn giận dữ đã ra lệnh thực hiện việc xử chém Ngài.

36/- Sākhāmigo yo asatā pumena vane papātā sayamuddhaṭena,
silāya bhinnepi sake lalāṭe taṃ khemabhūmiṃ anayittha mūḷhaṃ.

Ngài khi là con khỉ đã đích thân đỡ dậy người đàn ông xấu xa bị té ngã ở trong rừng, mặc dầu bị gã dùng hòn đá đập vỡ trán của chính mình vẫn hướng dẫn kẻ xảo quyệt ấy đến vùng đất an toàn.

37/- Ruṭṭhena mārenabhinimmitampi aṅgārakāsuṃ jalitaṃ vibhijja,
samuṭṭhite sajju mahāravinde ṭhatvāna yo seṭṭhi adāsi dānaṃ.

Ngài khi là nhà đại phú đã đứng ở trên đóa hoa sen khổng lồ (là vật) đã xẻ đôi và vươn lên một cách nhanh chóng từ hố than hừng rực lửa do Ma Vương giận dữ biến hóa thành, rồi đã cúng dường vật thí.

38/- Migena yenopavijaññamekaṃ bhītaṃ vadhā mocayituṃ kuraṅgiṃ,
āghātane attasiraṃ ṭhapetvā pamocitāññe yapi pāṇisaṅghā.

Ngài trong lốt nai đực đã kê đầu của mình ở bục chém để cứu thoát khỏi cái chết cho một con nai cái mang thai đang bị khiếp sợ, và ngay cả các con thú khác cũng đã được giải thoát.

39/- Yo sattavasso visikhāya paṃsukīḷāparo sambhavanāmakopi,
sabbaññulīḷhāya nigūḷhapañhaṃ puṭṭho viyākāsi sucīratena.

Ngay cả khi Ngài là đứa trẻ bảy tuổi có tên Sambhava đang nghịch đất cát ở đường lộ bị Sucīrata vấn nạn cũng đã trả lời được câu hỏi hóc búa với vẻ thư thái của bậc Toàn Giác.

40/- Hitvā nikantiṃ sakajīvitepi baddhā sakucchimhi ca vettavalliṃ,
sākhāmigenekasahassasaṅkhe vadhā pamocesi kapissaro yo.

Ngài khi là con khỉ đầu đàn, sau khi dứt bỏ niềm hy vọng sống sót của chính mình và quăng đi cây gậy được buộc chặt vào bụng, đã cứu hàng ngàn con khỉ thoát khỏi cái chết.

41/- Santappayaṃ dhammasudhārasena yo mānuse tuṇḍilasūkaropi,
isīva katvā atha ñāyaganthaṃ nijaṃ pavattesi cirāya dhammaṃ.

Ngay cả khi là Tuṇḍilasūkara cũng đã khiến cho nhân loại được thỏa mãn với hương vị tinh khiết của Giáo Pháp, tương tợ như vị ẩn sĩ sau khi thực hiện cuốn sách đạo lý của mình đã duy trì Giáo Pháp được dài lâu.

42/- Paccatthikaṃ puṇyakayakkhamuggaṃ
mahiddhikaṃ kāmaguṇesu giddhaṃ,
yo tikkhapañño vidhurābhidhāno
damesi kāḷāgirimatthakamhi.

Ngài khi là người có trí tuệ sắc sảo mang danh hiệu Vidhura đã thuần phục dạ-xoa Puṇyaka dữ tợn ở trên đỉnh núi Kāḷāgiri là kẻ nghịch thù có đại thần lực và đắm say trong các dục lạc.

43/- Kulāvasāyī avirūḷhapakkho yo buddhimā vaṭṭakapotakopi,
saccena dāvaggimabhijjalantaṃ vassena nibbāpayi vārido va.

Ngay cả khi Ngài là chim con Vaṭṭaka khôn ngoan có hai cánh không mọc được, nằm ở trong ổ chim nhờ vào sự chân thật cũng đã dập tắt được ngọn lửa rừng đang bốc cháy, tương tợ như đám mây với cơn mưa đã dập tắt đám lửa.

44/- Yo maccharājāpi avuṭṭhikāle disvāna macche tasite kilante,
saccena vākyena mahoghapuṇṇaṃ muhuttamattena akāsi raṭṭhaṃ.

Thậm chí khi Ngài là vua của loài cá, sau khi nhìn thấy các con cá bị khát và kiệt sức vào thời kỳ không có mưa, đã tạo nên trận lũ dữ dội chỉ trong chốt lát tràn ngập cả quốc độ nhờ vào lời nói chân thật.

45/- Vicittahatthassarathādikāni vasundharākampanakāraṇāni,
putte ’nujāte sadise ca dāre yo dajji vessantarajātiyampi.

Trong lần sanh ra làm Vessantara, Ngài đã bố thí voi ngựa xe, v.v... đã được trang hoàng, luôn cả người vợ cùng con cái đã được sanh ra, chính là những nguyên nhân khiến địa cầu rúng động.

46/- Buddho bhavitvā api diṭṭhadhammasukhānapekkho karuṇānuvattī,
sabbaṃ sahanto avamānanādiṃ yo dukkaraṃ lokahitaṃ akāsi.

Mặc dầu đã trở thành đức Phật, Ngài vẫn không màng đến an lạc trong thời hiện tại, là người hành theo hạnh bi mẫn, trong lúc chịu đựng mọi sự chê bai, v.v... Ngài đã làm được việc lợi ích cho thế gian là điều khó thực hiện.

47/- Balena saddhiṃ caturaṅgikena abhiddavantaṃ atibhiṃsanena,
ajeyyasatthaṃ paramiddhipattaṃ damesi yo ālavakampi yakkhaṃ.

Ngài cũng đã thuần phục dạ-xoa Ālavaka có thần lực tối cao, vô địch về vũ khí, cùng với đoàn quân gồm bốn loại binh chủng vô cùng kinh dị chưa hề thua trận.

48/- Dehābhinikkhantahutāsanacci
mālākulaṃ brahmabhavaṃ karitvā,
bhetvāna diṭṭhiṃ sucirānubaddhaṃ
damesi yo brahmavaraṃ munindo.

Là bậc Hiền Triết hàng đầu, Ngài đã làm cho Phạm Thiên bối rối vì tràng hoa và ngọn lửa bị tách rời khỏi thân thể, sau đó đã phá vỡ tà kiến thâm nhập lâu nay, và đã khuất phục vị Phạm Thiên cao quý.

49/- Accaṅkusaṃ dhānasudhotagaṇḍaṃ nipātitaṭṭālakagopurādiṃ,
dhāvantamagge dhanapālahatthiṃ damesi yo dāruṇamantakaṃ va.

Ngài đã thuần hóa voi Dhanapāla dữ tợn như Ma Vương, với mũi đầm đìa nước nhớt, roi gậy không điều khiển được, đang chạy ở trên đường khiến cho các lầu đài, cổng gác, v.v... bị sụp đổ.

50/- Manussarattāruṇapāṇipādamukkhippa khaggaṃ anubandhamānaṃ,
mahādayo duppasahaṃ parehi damesi yo aṅgulimālacoraṃ.

Với lòng từ bi cao cả, Ngài đã thuần phục kẻ cướp Aṅgulimāla khó thống trị bởi những người khác, đang rượt theo phía sau với gươm giơ cao, tay chân nhuốm đỏ máu người.

51/- Yo dhammarājā vijitārisaṅgho
pavattayanto varadhammacakkaṃ,
saddhammasaññaṃ ratanākarañca
ogāhayī saṃ parisaṃ samaggaṃ.

Ngài là vị Pháp Vương đã chiến thắng đám đông thù nghịch, trong lúc vận chuyển Pháp Luân cao quý đã đưa toàn thể đồ chúng an trú vào sự suy tưởng về Chánh Pháp và cội nguồn Tam Bảo.

52/- Tasseva saddhammanarādhipassa tathāgatassappaṭipuggalassa,
anantañāṇassa visāradassa esā mahākāruṇikassa dhātu.

Đây là xá-lợi của chính vị ấy, là vị vua của Chánh Pháp, đấng Như Lai, bậc không ai sánh bằng, đấng Đại Bi, bậc tự tín, có trí tuệ vô biên.

53/- Anena saccena jinassa dhātu khippaṃ samāruyha nabhantarāḷaṃ,
sudhaṃsulekheva samujjalantī kaṅkhaṃ vinodetu mahājanassa.

Do lời chân thật này, xin xá-lợi của đấng Chiến Thắng hãy tức thời bay lên không trung, đồng thời phát ra tia sáng tợ ánh trăng và xua tan nỗi hoài nghi của dân chúng.”

54/- Tasmiṃ khaṇe sā jinadantadhātu
nabhaṃ samuggamma pabhāsayantī,
sabbādisā osadhitārakā va
janaṃ pasādesi vitiṇṇakaṅkhaṃ.

Vào giây phút ấy, xá-lợi răng ấy của đấng Chiến Thắng đã bay lên hư không đồng thời chiếu sáng khắp mọi phương giống như ngôi sao Mai, và đã khiến cho mọi người phát khởi niềm tin, không còn điều nghi hoặc.

55/- Athotaritvā gaganaṅgaṇamhā sāmatthake seṭṭhisutassa tassa,
patiṭṭhahitvāna sudhābhisittagattaṃ va taṃ pīṇayi bhattininnaṃ.

Sau đó, xá-lợi ấy đã từ bầu không trung ngự xuống trên đầu của người con trai nhà đại phú ấy khiến cho con người có sự thành tín sâu thẳm ấy được hoan hỷ, như thể toàn thân được nước cam-lồ tưới mát.

56/- Disvāna taṃ acchariyaṃ nigaṇṭhā
iccabravuṃ paṇḍunarādhipaṃ taṃ,
vijjābalaṃ seṭṭhisutassa etaṃ
na dhātuyā deva ayaṃ pabhāvo.

Sau khi nhìn thấy điều kỳ diệu ấy, các đạo sĩ lõa thể đã nói với đức vua Paṇḍu ấy rằng: “Tâu bệ hạ, đây là năng lực do trí tuệ của người con trai nhà đại phú, quyền năng này không phải do xá-lợi.”

57/- Nisamma tesaṃ vacanaṃ narindo iccabravī seṭṭhisutaṃ subhaddaṃ,
yathā ca ete abhisaddaheyyuṃ tathāvidhaṃ dassaya iddhimaññaṃ.

Suy nghĩ về lời nói của những người ấy, đức vua đã nói với Subhadda con trai nhà đại phú rằng: “Bằng cách nào khiến cho những người này có được niềm tin thì khanh hãy phô diễn năng lực khác theo cách ấy.”

58/- Tato subhaddo tapanīyapatte sugandhisītodakapūritamhi,
vaḍḍhesi dhātuṃ munipuṅgavassa anussaranto caritabbhutāni.

Sau đó, trong lúc niệm tưởng đến các điều kỳ diệu của Phật hạnh, Subhadda đã đặt xá-lợi của đấng hiền triết cao quý vào trong cái chậu vàng chứa đầy nước mát có tẩm hương thơm.

59/- Sā rājahaṃsīva vidhāvamānā sugandhitoyamhi padakkhiṇena,
ummujjamānā ca nimujjamānā jane pamodassudhare akāsi.

Xá-lợi ấy như chim thiên nga chúa đã lướt vòng theo hướng phải ở trên làn nước có hương thơm, lặn xuống rồi nổi lên, khiến cho mọi người đều đẫm giọt lệ mừng rỡ.

60/- Tato ca kāsuṃ visikhāya majjhe katvā tahiṃ dhātumabhikkhipitvā,
paṃsūhi sammā abhipūrayitvā bahūhi maddāpayi kuñjarehi.

Sau đó, vị ấy đã đào cái hố ở giữa đường đi, đặt xá-lợi xuống ở trong ấy, cẩn thận lấp đầy đất, rồi cho nhiều con voi dẫm đạp lên.

61/- Bhetvā mahiṃ uṭṭhahi cakkamattaṃ virājamānaṃ maṇikaṇṇikāya,
pabhassaraṃ rūpiyake sarehi saroruhaṃ kañcanapattapāḷiṃ.

Một đóa hoa sen có kích thước bằng bánh xe, có cánh sen như cái đĩa bằng vàng, rạng rỡ với gương sen bằng ngọc ma-ni, và óng ánh với các tua nhụy màu bạc đã tách mặt đất vươn lên.

62/- Patiṭṭhabhitvāna tahiṃ saroje mandānilāvattitareṇujāle,
obhāsayantīva disā pabhāhi diṭṭhā muhuttena jinassadhātu.

Ngay lập tức, ở nơi ấy xá-lợi của đấng Chiến Thắng đã được nhìn thấy đang ngự trên đóa hoa sen được bao phủ bởi lớp phấn hoa mảnh mai xanh biếc đang tỏa ra các tia sáng khắp các phương.

63/- Khipiṃsu vatthābharaṇāni maccā
pavassayuṃ pupphamayañca vassaṃ,
ukkuṭṭhisaddehi ca sādhukāra-
nādehi puṇṇaṃ nagaraṃ akaṃsu.

Mọi người đã tung lên y phục và các đồ trang sức, đã tạo thành cơn mưa bằng bông hoa, và đã làm cho thành phố tràn ngập những âm thanh reo hò và những lời tán thán “Sādhu lành thay!”

64/- Te titthiyā taṃ abhivañcananti rājādhirājaṃ atha saññapetvā,
jigucchanīye kuṇapādikehi khipiṃsu dhātuṃ parikhāya piṭṭhe.

Khi ấy, các đạo sĩ lõa thể ấy đã nói với đức vua đứng đầu các vị vua rằng: “Điều ấy là vô cùng bịp bợm,” rồi đã quăng xá-lợi ở bên trên cái hố đào đáng ghê tởm vì các thây người chết.

65/- Tasmiṃ khaṇe pañcavidhambujehi
sañchāditā haṃsagaṇopabhuttā,
madhubbatālīvirutābhirāmā
ahosi sā pokkharaṇīva nandā.

Vào giây phút ấy, hố đào ấy đã biến thành hồ nước xinh xắn giống như hồ nước Nandā có năm loại hoa sen bao phủ, có bầy thiên nga vui thú, và có bầy ong mật bay vo ve.

66/- Mataṅgajā koñcaravaṃ raviṃsu kariṃsu hesāninadaṃ turaṅgā,
ukkuṭṭhinādaṃ akariṃsu maccā suvāditā dundubhi-ādayopi.

Lũ voi đã rống lên tiếng rống của loài voi, các con ngựa đã hí lên tiếng hí của loài ngựa, dân chúng đã vang lên tiếng reo hò, và những cái trống đã được vỗ thì thùng một cách điệu nghệ, v.v...

67/- Thomiṃsu maccā thutigītakehi nacciṃsu ottappavibhūsanāpi,
vatthāni sīse bhamayiṃsu mattā bhujāni poṭhesumudaggacittā.

Nhiều người đã tán thán với những lời ca khen ngợi, ngay cả những người có tánh nhút nhát như nữ trang cũng đã nhảy múa, nhiều người hứng khởi đã quay vòng vòng y phục phía trên đầu, một số khác có tâm phấn chấn đã vung vẫy những cánh tay.

68/- Dhūpehi kāḷāgarusambhavehi ghanāvanaddhaṃ va nabhaṃ ahosi,
samussitānekadhajāvalīhi puraṃ tadā vatthamayaṃ va āsi.

Khi ấy, bầu trời dường như được bao phủ bởi những lớp mây dầy đặc với những làn khói mù phát ra từ loại hắc mộc, và thành phố giống như được làm bằng vải với vô số dãy cờ xí đã được dựng lên.

69/- Disvā tamaccheramacintanīyaṃ āmoditā maccagaṇā samaggā,
atthe niyojetumupecca tassa vadiṃsu paṇḍussa narādhipassa.

Sau khi chứng kiến điều kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng ấy, tập thể các quan đại thần đã hoan hỷ đồng lòng tiến đến và khẩn cầu đức vua Paṇḍu ấy tham gia vào việc lợi ích:

70/- Disvāna yo īdisakampi rāja iddhānubhāvaṃ munipuṅgavassa,
pasādamattampi kareyya no ce kimatthiyā tassa bhaveyya paññā.

“Tâu bệ hạ, ngay cả sau khi nhìn thấy năng lực thần thông như thế ấy của bậc hiền triết cao quý, người nào vẫn không có chút niềm tin thì trí tuệ của người ấy có được lợi ích gì?

71/- Pasādanīyesu guṇesu rāja pasādanaṃ sādhujanassa dhammo,
pupphanti sabbe sayameva cande samuggate komudakānanāni.

Tâu bệ hạ, việc tin tưởng vào các đức hạnh đáng được tin tưởng là bản chất của bậc thiện nhân. Khi mặt trăng mọc lên thì toàn bộ các hoa rừng komuda đều tự thân nở rộ.

72/- Vācāya tesaṃ pana dummatīnaṃ mā saggamaggaṃ pajahittha rāja,
andhe gahetvā vicareyya ko hi anvesamāno supathaṃ amūḷho.

Tâu bệ hạ, hơn nữa xin chớ từ bỏ đường về thiên giới vì lời nói của những kẻ ngu si ấy. Ai lại nương theo và đi lại trong bóng tối, bởi vì người sáng trí sẽ tầm cầu con đường tốt đẹp?

73/- Narādhipā kappiṇabimbisāra-
suddhodanādi api tejavantā,
taṃ dhammarājaṃ saraṇaṃ upecca
piviṃsu dhammāmatamādareṇa.

Các vị vua có uy quyền như Kappiṇa, Bimbisāra, Suddhodana, v.v... đã đi đến nương nhờ vào đấng Pháp Vương ấy và do lòng thành kính đã nếm được Pháp Bất Tử.

74/- Sahassanetto tidasādhipo pi
khīṇāyuko khīṇabhavaṃ munindaṃ,
upecca dhammaṃ vimalaṃ nisamma
alattha āyuṃ api diṭṭhadhammo.

Ngay cả vị thần ngàn mắt, chúa của chư thiên, khi tuổi thọ gần hết đã đi đến gặp đấng Mâu Ni Vương đang ở vào giai đoạn cuối đời, đã lắng nghe Giáo Pháp thanh khiết, và cũng đã đạt được thọ mạng trong thời hiện tại.

75/- Tuvampi tasmiṃ jitapañcamāre devātideve varadhammarāje,
saggāpavaggādhigamāya khippaṃ cittaṃ pasādehi narādhirāja.

Tâu đại vương, để đạt đến cõi trời và sự giải thoát, ngay cả ngài cũng hãy mau khởi tâm hoan hỷ vào đấng Pháp Vương cao quý ấy, vượt trội hơn cả chư thiên, đã đánh bại năm hạng Ma Vương.”[5]

76/- Sutvāna tesaṃ vacanaṃ narindo vikiṇṇakaṅkho ratanattayamhi,
senāpatiṃ atthacaraṃ avoca pahaṭṭhabhāvo parisāya majjhe.

Sau khi lắng nghe lời nói của những người ấy, đức vua đã xua đi nỗi nghi ngờ vào Tam Bảo rồi với trạng thái phấn khởi đã nói với vị tướng quân ở giữa đám quần thần về việc thực hành điều lợi ích rằng:

77/- Asaddahāno ratanattayassa guṇe bhavacchedanakāraṇassa,
cirāya dulladdhipathe caranto ṭhito sarajje api vañcitohaṃ.

“Lâu nay, trẫm đã bị lừa dối. Trẫm dầu ngự trị vương quốc nhưng đã thực hành theo đường tà kiến và không có tin tưởng vào ân đức của Tam Bảo là nhân để chặt đứt sự luân hồi.

78/- Mohena khajjopaṇakaṃ dhamesiṃ sītaddito dhūmasikhe jalante,
pipāsito sindhujalaṃ pahāya piviṃ pamādena marīcitoyaṃ.

Bị khổ sở vì lạnh, do sự mê muội trẫm đã khơi lên ngọn lửa của loài đôm đốm trong lúc đám lửa có khói đang cháy sáng. Đang bị khát, do sự lơ đễnh trẫm lại bỏ đi nguồn nước của đại dương và uống vào thứ nước ảo giác.

79/- Pariccajitvā amataṃ cirāya jīvatthiko tikkhavisaṃ akhādiṃ,
vihāya’haṃ campakapupphadāmaṃ adhārayiṃ jattusu nāgabhāraṃ.

Lâu nay, là người tầm cầu thọ mạng trẫm lại bỏ đi nước cam lồ và đã ăn vào thuốc độc cực mạnh, trẫm lại bỏ đi tràng hoa Campaka và đã khoác lên bầy rắn ở trên vai.

80/- Gantvāna khippaṃ parikhāsamīpaṃ ārādhayitvā jinadantadhātuṃ,
ānehi pūjāvidhinā karissaṃ puññāni sabbattha sukhāvahāni.

Trẫm sẽ lập tức đi đến bên hố đào, sẽ rước xá-lợi răng của đấng Chiến Thắng lên, và sẽ thực hiện các phước thiện theo phương thức cúng dường hiện tại để đem lại an lạc cho mọi nơi.”

81/- Gantvā tato so parikhāsamīpaṃ senādhinātho paramappatīto,
dhātuṃ munindassa namassamāno ajjhesi rañño hitamācaranto.

Sau đó, trong lúc bày tỏ lòng cung kính đồng thời tiến hành sự lợi ích cho vương quốc, vị thống lãnh quân đội ấy, vô cùng hoan hỷ, đã đi đến bên hố đào thỉnh cầu xá-lợi của đấng Mâu Ni.

82/- Cirāgataṃ diṭṭhimalaṃ pahāya alattha saddhaṃ sugate narindo,
pāsādamāgamma pasādamassa vaḍḍhehi rañño ratanattayamhi.

Sau khi từ bỏ bợn nhơ của tà kiến đã bị tiêm nhiễm bấy lâu, đức vua đã thành đạt niềm tin vào đức Thiện Thệ và đã quay về tòa lâu đài. Đức tin của vị vua ấy đối với Tam Bảo đã được tăng trưởng.

83/- Tasmiṃ khaṇe pokkharaṇī vicittā phullehi sovaṇṇasaroruhehi,
alaṅkarontī gaganaṃ ahosi mandākinīvābhinavāvatārā.

Vào giây phút ấy, hồ nước được điểm tô bằng những đóa hoa sen màu vàng nở rộ trở nên giống như hồ nước Mandākinī ở trên thiên cung được trang hoàng những vì sao mới.

84/- Haṃsaṅgaṇevātha munindadhātu sā paṅkajā paṅkajamokkamantī,
kundāvadātāhi pabhāhi sabbaṃ khīrodakucchiṃva puraṃ akāsi.

Khi ấy, xá-lợi răng của đấng Mâu Ni Vương với những tia sáng màu trắng hoa nhài, trông như bầy thiên nga, đang ngự xuống từ đóa sen này đến đóa sen khác đã làm cho toàn bộ thành phố trông giống như bề mặt của biển khơi.

85/- Tato surattañjalipaṅkajamhi patiṭṭhahitvāna camūpatissa,
sandissamānā mahatā janena mahapphalaṃ mānusakaṃ akattha.

Kế đến, xá-lợi ấy sau khi đã ngự ở trên đóa sen màu đỏ rực trông giống như bàn tay chắp lại, và trong lúc được đám đông người chiêm ngưỡng đã tạo nên kết quả lớn lao về nhân tính đối với vị quân vương.

86/- Sutvāna vuttantamimaṃ narindo pahaṭṭhabhāvo padasā va gantvā,
saṃsūcayanto diguṇaṃ pasādaṃ suvimhito pañjaliko avoca.

Sau khi nghe được tin này, đức vua với trạng thái phấn chấn đã đích thân đi bộ đến. Vô cùng ngạc nhiên, đức vua trong lúc bày tỏ niềm tin được nhân đôi đã chắp tay lên nói rằng:

87/- Vohāradakkhā manujā muninda saṅghaṭṭayitvā nikasopalamhi,
karonti agghaṃ varakañcanassa eso hi dhammo carito purāṇo.

“Ôi đấng Mâu Ni Vương, những người rành rẽ về buôn bán định được giá trị của vàng nguyên chất sau khi cọ xát vào phiến đá mài, bởi vì đây là phương thức cổ truyền đã được thực hành.

88/- Maṇiṃ pasatthākarasambhavampi hutāsakammehi ’bhisaṅkharitvā,
pāpenti rājaññakirīṭakoṭiṃ vibhūsanatthaṃ viduno manussā.

Những người thông minh gắn viên ngọc ma-ni ở trên đỉnh vương miện dòng dõi Sát-đế-lỵ nhằm mục đích trang điểm, mặc dầu viên ngọc được biết là có nguồn gốc từ hầm mỏ và được trau chuốt với các công việc đốt nóng.

89/- Vīmaṃsanatthāya tavādhunāpi
mayā kataṃ sabbamidaṃ muninda,
āguṃ mahantaṃ khama bhūripañña
khippaṃ mamālaṅkuru uttamaṅgaṃ.

Ôi đấng Mâu Ni Vương, giờ đây trẫm cũng đã làm tất cả việc này để đáp ứng sự thử thách của Ngài. Ôi đấng trí tuệ bao la, xin hãy tha thứ tội lỗi trầm trọng và hãy mau chóng điểm tô cái đầu của trẫm.”

90/- Patiṭṭhitā tassa tato kirīṭe maṇippabhābhāsinī dantadhātu,
amuñci raṃsī dhavalā pajāsu sinehajātā iva khīradhārā.

Kế đó, xá-lợi răng có ánh sáng như là ngọc ma-ni đã ngự lên vương miện của đức vua và đã phát ra hào quang màu sáng trắng đến chúng sanh tợ như giòng sữa tiết ra vì lòng thương mến.

91/- So dantadhātuṃ sirasā vahanto padakkhiṇaṃ taṃ nagaraṃ karitvā,
sampūjayanto kusumādikehi susajjitantopuramāharittha.

Trong khi đội xá-lợi răng ở trên đầu và tỏ lòng tôn kính bằng những bông hoa, v.v... đức vua đã hướng vai phải nhiễu quanh thành phố ấy rồi đã mang đến nội thành đã khéo được trang hoàng.

92/- Samussitodārasitātapatte pallaṅkaseṭṭhe ratanujjalamhi,
patiṭṭhapetvāna jinassa dhātuṃ pūjesi rājā ratanādikehi.

Sau khi đức vua đã an vị ở trên chiếc ngai thượng hạng lấp lánh châu ngọc có chiếc lọng trắng cao quý che bên trên và đã cúng dường xá-lợi của đấng Chiến Thắng bằng những châu báu, v.v...

93/- Buddhādivatthuttayameva rājā āpāṇakoṭiṃ saraṇaṃ upecca,
hitvā vihiṃsaṃ karuṇādhivāso ārādhayī sabbajanaṃ guṇehi.

Sau khi quy y Tam Bảo là Phật Bảo, v.v... cho đến tận cùng hơi thở, đức vua đã từ bỏ sự bạo tàn, an trú vào lòng bi mẫn, và đã làm cho tất cả mọi người được hài lòng với nhiều đức hạnh.

94/- Kāresi nānāratanappabhāhi sahassaraṃsīva virocamānaṃ,
narādhipo bhattibharānurūpaṃ sucittitaṃ dhātunivesanampi.

Với sự hết lòng tận tụy, vị vương quân cũng đã cho xây dựng phòng thờ xá-lợi khéo được tô điểm tương xứng và rực rỡ với những luồng ánh sáng của các loại châu báu khác nhau trông giống như ánh mặt trời.

95/- Vaḍḍhesi so dhātugharamhi dhātuṃ alaṅkaritvā sakalaṃ purampi,
sesena pūjāvidhinā atitto pūjesi raṭṭhaṃ sadhanaṃ sabhogaṃ.

Sau khi đã an vị xá-lợi ở trong gian nhà thờ xá-lợi và cũng đã cho khuếch trương toàn bộ thành phố, đức vua còn chưa được thỏa mãn với phương thức cúng dường nên đã cúng dường vương quốc cùng với tài sản và của cải.

96/- Āmantayitvā guhasīvarājaṃ sammānitaṃ attasamaṃ karitvā,
dānādikaṃ puññamanekarūpaṃ saddhādhano sañciṇi rājaseṭṭho.

Sau khi thỉnh mời đức vua Guhasīva và đã thể hiện sự long trọng tương tợ chính mình, rồi với tài sản là đức tin vị vua lãnh tụ đã tích lũy phước báu dưới nhiều hình thức như là bố thí, v.v...

97/- Tato so bhūpālo kumatijanasaṃsaggamanayaṃ,
nirākatvā magge sugatavacanujjotasugame.
padhāvanto sammā saparahitasampatticaturo,
pasatthaṃ lokatthaṃ acari caritāvajjitajano.

Từ đó, sau khi đã từ bỏ đường lối giao lưu với những kẻ có trí tuệ sai lạc, vị vương quân ấy, là người khôn khéo trong việc tạo thành sự lợi ích cho người khác và là người có sự suy nghĩ trong hành động, đã thực hành điều lợi ích tốt đẹp cho thế gian đồng thời tiến lên trên đạo lộ thuận tiện và sáng lạng theo lời dạy của đấng Thiện Thệ.

Tatiyo paricchedo.
(Đây là) chương thứ ba.

--ooOoo--

CATUTTHO PARICCHEDO
CHƯƠNG THỨ TƯ

1/- Carati dharaṇipāle rājadhammesu tasmiṃ
samaracaturaseno khīradhāro narindo,
nijabhujabalalīlā ’rātidappappamāthī
vibhavajanitamāno yuddhasajjo ’bhigañchi.

Trong lúc vị vương quân ấy đang thực thi các phận sự hoàng gia, thì đức vua Khīradhāra là người khuất phục niềm kiêu hãnh của kẻ thù bằng sự vận dụng sức mạnh của đôi tay mình và có bốn đội binh thiện chiến đã tiến quân, đồng thời tăng cường lực lượng sẵn sàng lâm trận.

2/- Karivaramatha disvā so guhādvārayātaṃ
paṭibhayarahitatto sīharājāva rājā,
nijanagarasamīpāyātametaṃ narindaṃ
amitabalamahoghen’ottharantā’bhiyāyi.

Khi nhìn thấy con voi cao quý đã tiến đến cửa hang và vị vua kia đã tiến đến khu vực lân cận thành phố của mình, vị vua ấy như con sư tử chúa có bản chất không hề sợ hãi đã tấn công vào những kẻ xâm lược bằng cơn lũ dữ dội của sức mạnh vô biên.

3/- Uditabahaladhūlīpāḷiruddhantaḷikkho
samadavividhayodhārāvasaṃrambhabhīme,
nisitasarasatālīvassadhārākarāle
ajini mahati yuddhe paṇḍuko khīradhāraṃ.

Bầu trời đã bị che lấp bởi đám bụi mù dầy đặc bốc lên, đức vua Paṇḍu đã đánh bại đức vua Khīradhāra trong trận chiến đấu dữ dội, ghê rợn đầy chết chóc với tiếng la hét của nhiều hạng chiến sĩ đang hăng máu, trong tiếng sấm động mang theo những đám mưa với hàng trăm mũi tên sắc bén.

4/- Atha narapatiseṭṭho saṅgahetvāna raṭṭhaṃ
nijatanujavarasmiṃ rajjabhāraṃ nidhāya,
sugatadasanadhātuṃ sampaṭicchāpayetvā
pahiṇi ca guhasīvaṃ sakkaritvā saratthaṃ.

Sau đó, vị vua lãnh tụ đã hồi phục lại vương quốc rồi đã truyền ngôi vua cho người con trai yêu quý của mình sau đó đã thuyết phục đức vua Guhasīva nhận lấy xá-lợi răng của đấng Thiện Thệ rồi đã tiếp đãi trọng thể và đã tiễn về xứ sở của vị ấy.

5/- Suciramavanipālo saññamaṃ ajjhupeto
vividhavibhavadānā yācake tappayitvā,
tidasapurasamājaṃ dehabhedāpayāto
kusalaphalamanappaṃ patthitaṃ paccalattha.

Thời gian dài sau đó, đức vua đã đạt được sự tự chế và đã làm hài lòng những người hành khất với sự bố thí nhiều loại vật chất, đến khi thân xác tan hoại đã sanh về cõi trời và đã thành tựu được nhiều quả báu tốt lành như nguyện.

6/- Narapati guhasīvo taṃ munindassa dhātuṃ
sakapuramupanetvā sādhu sammānayanto,
sugatigamanamagge pāṇino yojayanto
sucaritamabhirūpaṃ sañcinanto vihāsi.

Sau khi rước xá-lợi của đấng Mâu Ni Vương ấy về thành phố của mình, đức vua Guhasīva đã sống, đồng thời đã tích lũy hạnh lành cao thượng, đã cung kính đúng mực, và đã gắn bó nhiều người vào đạo lộ đi đến cõi trời.

7/- Agaṇitamahimassujjenirañño tanūjo
purimavayasi yevāraddhasaddhābhiyogo,
dasabalatanudhātuṃ pūjituṃ tassa rañño
puravaramupāyāto dantanāmo kumāro.

Vị hoàng tử tên Danta, con trai của đức vua xứ Ujjenī, là người có sự cung kính và niềm tin phát khởi, lúc tuổi còn trẻ đã đi đến thành phố của vị vua ấy để cúng dường xá-lợi của đấng Thập Lực.

8/- Guṇajanitapasādaṃ taṃ kaliṅgādhināthaṃ
nikhilaguṇanivāso so kumāro karitvā,
vividhamahavidhānaṃ sādhu sampādayanto
avasi sugatadhātuṃ anvahaṃ vandamāno.

Vị hoàng tử ấy với đầy đủ các đức hạnh đã tạo được niềm tin ở đức vua xứ Kaliṅga ấy nhờ vào hạnh kiểm. Và vị ấy đã sống, đồng thời đã thể hiện lòng thành theo nhiều phương thức long trọng khác nhau, và đã cúng dường đến xá-lợi của đấng Thiện Thệ mỗi ngày.

9/- Abhavi ca guhasīvassāvanīsassa dhītā
vikacakuvalayakkhī haṃsakantābhiyātā,
vadanajitasarojā hāridhammillabhārā
kucabharanamitaṅgī hemamālābhidhānā.

Đức vua Guhavīva có người con gái tên là Hemamālā. Nàng có đôi mắt như hoa súng, có dáng đi đẹp như chim thiên nga, có khuôn mặt vượt hẳn đóa hoa sen, có những búi tóc bện xinh đẹp, có dáng người ưởn ra phía trước để nâng đỡ bộ ngực.

10/- Akhilaguṇanidhānaṃ bandhubhāvānurūpaṃ
suvimalakulajātaṃ taṃ kumāraṃ viditvā,
narapati guhasīvo attano dhītaraṃ taṃ
adadi sabahumānaṃ rājaputtassa tassa.

Sau khi biết được vị hoàng tử ấy xuất thân dòng dõi không chút bợn nhơ, có đầy đủ đức hạnh tốt đẹp, xứng đáng để thân cận, đức vua Guhasīva đã gả người con gái yêu quý ấy của mình cho vị hoàng tử ấy.

11/- Manujapati kumāraṃ dhāturakkhādhikāre
pacuraparijanaṃ taṃ sabbathā yojayitvā,
gavamahisasahassādīhi sampīṇayitvā
sakavibhavasarikkhe issaratte ṭhapesi.

Đức vua đã giao phó hoàn toàn cho vị hoàng tử ấy và đoàn tùy tùng đông đảo nhiệm vụ bảo quản xá-lợi, đã làm cho hoan hỷ với hàng ngàn trâu, bò, v.v... và đã đặt vào vị trí lãnh đạo tương đương với quyền lực của mình.

12/- Samarabhuvi vinaṭṭhe khīradhāre narinde
malayavanamupetā bhāgineyyā kumārā,
pabalamatimahantaṃ saṃharitvā balaggaṃ
upapuramupagañchuṃ dhātuyā gaṇhaṇatthaṃ.

Khi đức vua Khīradhāra bị giết chết ở bãi chiến trường, các vị hoàng tử hàng con cháu đã đi đến khu rừng Malaya, đã thu thập đội quân lớn mạnh và tinh nhuệ, rồi đã tiến đến gần thành phố để đoạt lấy xá-lợi.

13/- Atha nagarasamīpe te nivesaṃ karitvā
savaṇakaṭukametaṃ sāsanaṃ pesayiṃsu,
sugatadasanadhātuṃ dehi vā khippamamhaṃ
yasasirijananiṃ vā kīḷa saṅgāmakeḷiṃ.

Sau đó, họ đã xây dựng lều trại ở xung quanh thành phố và cho người đưa lời nhắn nhủ khó nghe rằng: “Hãy mau trao ra cho chúng tôi xá-lợi răng của đấng Thiện Thệ, hoặc là hãy xông xáo chiến trận là nơi tạo ra vinh quang và danh vọng?”

14/- Sapadi dharaṇipālo sāsanaṃ taṃ suṇitvā
avadi rahasi vācaṃ rājaputtassa tassa,
na hi sati mama dehe dhātumaññassa dassaṃ
ahamapi yadi jetuṃ neva te sakkuṇeyyaṃ.

15/- Suranaranamitaṃ taṃ dantadhātuṃ gahetvā
gahitadijavilāso sīhaḷaṃ yāhi dīpaṃ,
iti vacanamudāraṃ mātulassātha sutvā
tamavaca guhasīvaṃ dantanāmo kumāro.

Ngay khi vừa nghe được lời nhắn tin ấy, đức vua đã nói riêng với vị hoàng tử ấy rằng: “Nếu thân mạng ta còn thì ta sẽ không trao xá-lợi cho người khác. Tuy nhiên, nếu ta không thể chiến thắng họ thì ngươi hãy cải trang thành bà-la-môn rồi hãy mang xá-lợi răng được chư thiên và nhân loại tôn thờ ấy đi đến hòn đảo Laṅkā.” Khi ấy, vị hoàng tử tên Danta đã nghe được lời nói cao thượng của người cậu nên đã nói với đức vua Guhasīva ấy rằng:

16/- Tava ca mama ca ko vā sīhaḷe bandhubhūto
jinacaraṇasaroje bhattiyutto ca ko vā,
jalanidhiparatīre sīhaḷaṃ khuddadesaṃ
kathamahamatinessaṃ dantadhātuṃ jinassa.

“Ở trên xứ Sīhaḷa, ai là người thân thuộc của ngài hoặc của con? Và ai là người tận tụy trong việc thờ phụng bàn chân hoa sen của đấng Chiến Thắng? Tại sao con sẽ phải đưa xá-lợi của đấng Chiến Thắng đến xứ sở nhỏ bé Sīhaḷa ở bờ bên kia của biển cả?”

17/- Tamavadi guhasīvo bhāgineyyaṃ kumāraṃ
dasabalatanudhātū saṇṭhitā sīhaḷasmiṃ,
bhavabhayahatidakkho vattate satthudhammo
gaṇanapathamatītā bhikkhavo cāvasiṃsu.

Đức vua Guhasīva đã nói với vị hoàng tử là người cháu trai ấy rằng: “Ở xứ Sīhaḷa có các xá-lợi di thể của đấng Thập Lực đang được lưu trữ, Giáo Pháp của bậc Đạo Sư có khả năng đoạn diệt luân hồi và sự sợ hãi đang được thực hành, và đã có vô số các vị tỳ khưu cư trú.

18/- Mama ca piyasahāyo so mahāsenarājā
jinacaraṇasarojadvandasevābhiyutto,
salilamapi ca phuṭṭhaṃ dhātuyā patthayanto
vividharatanajātaṃ pābhataṃ pesayittha.

Và đức vua Mahāsena ấy là bạn hữu yêu quý của trẫm luôn gắn bó trong việc thờ phượng hai bàn chân như đóa sen của đấng Chiến Thắng. Thậm chí trong lúc thỉnh cầu lượng nước đã được xá-lợi chạm đến, đức vua cũng đã gởi đến quà biếu được tạo nên với nhiều loại châu báu.

19/- Pabhavati manujindo sabbadā buddhimā so
sugatadasanadhātuṃ pūjituṃ pūjaneyyaṃ,
paricitavisayamhā vippavutthaṃ bhavantaṃ
vividhavibhavadānā sādhu saṅgaṇhituṃ ca.

Vị vua ấy thông minh, luôn luôn có khả năng cúng dường xá-lợi răng của đấng Thiện Thệ là vật xứng đáng để cúng dường, và (có khả năng) tiếp đãi nồng hậu với nhiều sự cung phụng về vật chất đối với cháu đang lúc sống xa lìa các đối tượng quen thuộc.”

20/- Nijaduhitupatiṃ taṃ itthamārādhayitvā
narapati guhasīvo saṅgahetvāna senaṃ,
raṇadharaṇimupeto so kumārehi saddhiṃ
maraṇaparavasattaṃ ajjhagā yujjhamāno.

Sau khi đã khích lệ người chồng của con gái mình như thế, đức vua Guhasīva ấy đã tập hợp đoàn quân tiến ra bãi chiến trường, và trong lúc giao đấu cùng với các vị hoàng tử đã bị tử thương.

21/- Atha narapatiputto dantanāmo suṇitvā
savaṇakaṭukametaṃ mātulassa pavattiṃ,
gahitadijavilāso dantadhātuṃ gahetvā
turitaturitabhūto so puramhā palāyi.

Khi ấy, người con trai của đức vua tên là Danta đã nghe được tin khó nghe ấy về người cậu. Vị ấy đã cải trang thành bà-la-môn rồi mang theo xá-lợi răng và đã tẩu thoát khỏi thành phố trong trạng thái vô cùng vội vã.

22/- Sarabhasamupagantvā dakkhiṇaṃ cātha desaṃ
avicalitasabhāvo iddhiyā devatānaṃ,
nadimatimahatiṃ so uttaritvāna puṇṇaṃ
nidahi dasanadhātuṃ vālukārāsimajjhe.

Rồi sau đó, khi đã đi đến Sarabhasa là khu vực ở phía nam, vị ấy với bản chất kiên định đã vượt qua giòng sông ngập nước vô cùng rộng lớn nhờ vào năng lực của chư thiên và đã giấu xá-lợi răng vào giữa đống cát.

23/- Puna puramupagantvā taṃ gahitaññavesaṃ
bhariyamapi gahetvā āgato tattha khippaṃ,
sugatadasanadhātuṃ vālukāthūpakucchiṃ
ṭhapitamupacaranto acchi gumbantarasmiṃ.

Hơn nữa, sau khi đã đi đến gần thành phố, vị ấy cũng đã dẫn người vợ được hóa trang dưới bộ dạng khác rồi đã nhanh chóng đi đến nơi ấy. Vị ấy đã cư ngụ ở giữa khu rừng thưa đồng thời thờ phụng xá-lợi răng của đức Thiện Thệ đã được đặt ở trong lòng ngôi tháp bằng cát.

24/- Sapadi nabhasi thero gacchamāno paneko
vividhakiraṇajālaṃ vālukārāsithūpā,
aviralitamudentaṃ dhātuyā tāya disvā
paṇami sugatadhātuṃ otaritvāna tattha.

Hơn nữa, có một vị trưởng lão trong lúc đang di chuyển ở trên không trung đã nhìn thấy màng lưới hào quang đa dạng của xá-lợi ấy đang phát ra không ngừng từ ngôi tháp là đống cát nên đã lập tức đáp xuống nơi ấy và đã đảnh lễ xá-lợi của đức Thiện Thệ.

25/- Munisutamatha disvā jampatī te patītā
nijagamanavidhānaṃ sabbamārocayiṃsu,
dasabalatanujo so dhāturakkhāniyutto
parahitaniratatto te ubho ajjhabhāsi.

Sau khi nhìn thấy vị đệ tử của đấng Mâu Ni, cặp vợ chồng ấy đã mừng rỡ kể lại tất cả về tiến trình lưu lạc đến (nơi ấy). Vị đệ tử của đấng Thập Lực ấy có trách nhiện trong việc bảo quản xá-lợi và có bản tánh hoan hỷ với điều lợi ích của người khác nên đã nói với cả hai người ấy rằng:

26/- Dasabalatanudhātuṃ sīhaḷaṃ netha tumhe
agaṇitatanukhedā vītasārajjametaṃ,
api ca gamanamagge jātamatte vighāte
saratha mamamanekopaddavacchedadakkhaṃ.

“Các vị đang di chuyển xá-lợi di thể của đấng Thập Lực đến xứ Sīhaḷa, điều ấy chứng tỏ rằng các vị đã không màng đến biết bao sự khổ nhọc về cơ thể. Tuy nhiên, ở trên đường đi mỗi khi có việc giết chóc xảy ra, các vị hãy tưởng nhớ đến tôi thì tôi sẽ nhìn thấy được mọi điều hiểm nghèo hoặc cướp bóc.”

27/- Iti sugatatanujo jampatīnaṃ kathetvā
punapi tadanurūpaṃ desayitvāna dhammaṃ,
puthutaramapanetvā sokasallañca gāḷhaṃ
sakavasatimupetā antaḷikkhena dhīro.

Sau khi nói như thế với cặp vợ chồng, vị đệ tử trí tuệ của đấng Thiện Thệ cũng đã thuyết giảng Giáo Pháp phù hợp với sự việc ấy và đã nhổ lên mũi tên sầu muộn sâu xa và trầm trọng, sau đó đã trở về chỗ trú ngụ của mình bằng đường không trung.

28/- Bhujagabhavanavāsi ninnagāyātha tassā
bhujagapati mahiddhī paṇḍubhārābhidhāno,
sakapurapavaramhā nikkhamitvā caranto
samupagami tadā taṃ ṭhānamicchāvasena.

Khi ấy, con rồng chúa có đại thần lực tên là Paṇḍubhāra cư ngụ trong cung điện của loài rồng ở tại giòng sông ấy đã rời khỏi thành trì sang trọng của mình, và trong lúc di chuyển theo ý thích đã đi đến gần địa điểm ấy.

29/- Vimalapulinathūpā so samuggacchamānaṃ
sasiruciramarīcijjālamālokayitvā,
ṭhitamatha munidhātuṃ vālukārāsigabbhe
kimidamiti sakaṅkhaṃ pekkhamāno avedi.

Trong lúc tiến đến gần, con rồng chúa ấy đã nhìn thấy màng lưới hào quang tợ như mặt trăng từ đồi cát tinh khiết, và trong lúc suy tư về điều thắc mắc “Đây là vật gì vậy?” nó đã biết được rằng xá-lợi của đấng Mâu Ni được đặt ở bên trong lòng đống cát.

30/- Sapadi sabahumāno so asandissamāno
ratanamayakaraṇḍaṃ dhātuyuttaṃ gilitvā,
vitataputhuladeho bhogamālāhi tuṅgaṃ
kanakasikharirājaṃ veṭhayitvā sayittha.

Ngay lập tức, với sự vô cùng tôn kính con rồng chúa liền tàng hình và đã nuốt vào cái hòm làm bằng châu báu đang chứa đựng xá-lợi. Sau đó với thân hình rộng lớn trải dài, con rồng chúa đã quấn quanh ngọn núi chúa bằng vàng với các vòng thân thể rồi nằm xuống.

31/- Salilanidhisamīpaṃ jampatī gantukāmā
pulinatalagataṃ taṃ dantadhātuṃ adisvā,
nayanasaliladhāraṃ sokajātaṃ kirantā
sugatasutavaraṃ taṃ taṅkhaṇe’nussariṃsu.

Hai vợ chồng có ý định đi đến vùng ven biển, nhưng không nhìn thấy xá-lợi răng ấy để ở bên dưới đống cát nên đã sanh khởi lòng sầu muộn, rồi đã tuôn trào giòng nước mắt, và vào giây phút ấy đã tưởng nhớ đến vị đệ tử cao quý ấy của đấng Thiện Thệ.

32/- Atha sugatasuto so cintitaṃ saṃviditvā
agami savidhamesaṃ sokadīnānanānaṃ,
asuṇi ca jinadhātuṃ vālukārāsimajjhe
nihitamapi adiṭṭhaṃ pūjitaṃ jampatīhi.

Khi ấy, vị đệ tử ấy của đấng Thiện Thệ đã nhận biết luồng tư tưởng nên liền đi đến gặp những người ấy đang có khuôn mặt sầu muộn khổ sở, và đã biết rằng xá-lợi của đấng Chiến Thắng đã không còn được nhìn thấy, mặc dầu đã được cất giấu ở giữa đống cát và được thờ phụng bởi hai vợ chồng.

33/- Sayitamatha yatī so dibbacakkhuppabhāvā
ratanagirinikuñje nāgarājaṃ apassi,
vihagapatisarīraṃ māpayī tammuhutte
vitataputhulapakkhenantaḷikkhaṃ thakentaṃ.

Sau đó, vị tỳ khưu ấy bằng năng lực thiên nhãn đã nhìn thấy con rồng chúa đang nằm ở bên cạnh hòn núi châu báu (Ratanagiri). Và vào giây phút ấy vị ấy đã biến hóa thành thân thể của loài chim chúa có đôi cánh xòe rộng che kín bầu trời.

34/- Jaladhimatigambhīraṃ taṃ dvidhā so karitvā
pabalapavanavegenattano pakkhajena,
sarabhasamabhidhāvaṃ bhīmasaṃrambhayogā
abhigami bhujagindaṃ merupāde nipannaṃ.

Vị ấy đã xẻ biển cả sâu thẳm ấy ra làm hai bằng đôi cánh của chính mình với tốc độ của làn gió mạnh mẽ, rồi đã tạo thành tiếng kêu ghê rợn và mau chóng lao đến con rồng chúa đang nằm ở chân núi Meru.

35/- Jahitabhujagaveso taṅkhaṇe so phaṇindo
paṭibhayacakitatto saṃkhipitvāna bhoge,
sarabhasamupagantvā tassa pāde namitvā
vinayamadhuramitthaṃ taṃ munīsaṃ avoca.

Vào giây phút ấy, con rồng chúa ấy, với nội tâm bị hoảng hốt vì nỗi lo sợ nên đã quăng bỏ lốt rắn và thâu nhỏ thân thể lại, rồi mau chóng đến gần đảnh lễ ở chân của vị ấy, và đã nói với vị ẩn sĩ ấy bằng giọng nói nhún nhường và ngọt ngào rằng:

36/- Sakalajanahitatthaṃ eva jāyanti buddhā
bhavati janahitatthaṃ dhātumattassa pūjā,
ahamapi jinadhātuṃ pūjayitvā mahagghaṃ
kusalaphalamanappaṃ sañcinissanti gaṇhiṃ.

“Chư Phật xuất hiện chính vì lợi ích cho hết thảy chúng sanh, việc cúng dường đến xá-lợi là việc đem lại lợi ích của chúng sanh. (Nghĩ rằng): ‘Tôi cũng cúng dường đến xá-lợi cao quý của đấng Chiến Thắng và cũng sẽ gặt hái quả thiện lớn lao,’ nên tôi đã lấy đi xá-lợi.”

37/- Atha manujagaṇānaṃ saccabodhārahānaṃ
vasatibhavanamesā nīyate sīhaḷaṃ taṃ,
munivaratanudhātuṃ tena dehīti vutto
bhujagapati karaṇḍaṃ dhātugabbhaṃ adajji.

Khi ấy, con rồng chúa đã được nói rằng: “Xá-lợi này được đưa đến xứ Sīhaḷa ấy là chốn cư ngụ của số đông người có khả năng giác ngộ Chân Lý; vì thế xin hãy trao lại xá-lợi di thể của đấng Mâu Ni cao quý,” nên đã trao lại chiếc hòm là vật chứa đựng xá-lợi.

38/- Vihagapatitanuṃ taṃ saṃharitvāna thero
jalacarasatabhīmā aṇṇavā uppatitvā,
sakalapaṭhavicakke rajjalakkhiṃ va dhātuṃ
narapatitanujānaṃ jampatīnaṃ adāsi.

Vị trưởng lão đã cởi bỏ vóc dáng ấy của con chim chúa. Hàng trăm con cá hung tợn từ biển cả đã phóng lên và trao lại xá-lợi chính là bảo vật của vương quyền ở trên toàn thể trái đất và vũ trụ cho hai vợ chồng là con của đức vua.

39/- Iti katabahukāre saṃyaminde payāte
sugatadasanadhātuṃ muddhanā ubbahantā,
mahati vipinadevādīhi magge payutte
vividhamahavidhāne te tato nikkhamiṃsu.

Sau khi đã được vị đứng đầu trong sự thu thúc thể hiện các việc làm như thế, và trong lúc đội xá-lợi răng của đấng Thiện Thệ ở trên đầu đi trên con đường lớn đã được chư thiên ở khu rừng sửa soạn với các sự trang hoàng đa dạng lộng lẫy, bọn họ đã rời khỏi nơi ấy.

40/- Mudusurabhisamīro kaṇṭakādivyapeto
vimalapulinahārī āsi sabbattha maggo,
ayanamupagate te dantadhātuppabhāvā
nigamanagaravāsī sādhu sammānayiṃsu.

Con đường đã được lót cát tinh khiết ở khắp mọi nơi, được dọn sạch các loại gai góc, v.v... và có làn gió dịu dàng thơm ngát. Do nhờ năng lực của xá-lợi răng, khi họ đang tiến bước trên con đường, cư dân ở phố chợ và thị thành đã tỏ lòng tôn kính theo khuôn phép.

41/- Kusumasurabhicuṇṇākiṇṇahatthāhi niccaṃ
sakutukamanuyātā kānane devatāhi,
acalagahanaduggaṃ khepayitvāna maggaṃ
agamumaturitā te paṭṭanaṃ tāmalittiṃ.

Luôn được chư thiên ở trong khu rừng tháp tùng một cách phấn khởi với các bông hoa và bột phấn thơm chất đầy ở hai tay, họ đã vượt qua đoạn đường gồ ghề khó đi và đã mau chóng đến được bến tàu Tāmalitti.

42/- Acalapadarabaddhaṃ suṭṭhitodārakūpaṃ
uditaputhulakāraṃ dakkhaniyyāmakañca,
sayamabhimatalaṅkāgāminaṃ nāvamete
sapadi samuparūḷhaṃ addasuṃ vāṇijehi.

Ngay khi ấy họ đã đích thân nhìn thấy chiếc thuyền dự định đi đến Laṅkā được lắp đặt sàn tàu vững chải, có cột buồm khổng lồ đứng sừng sững căng lên chiếc buồm rộng và có người thuyền trưởng thiện nghệ cùng với các thương buôn đã bước lên thuyền.

43/- Atha dijapavarā te sīhaḷaṃ gantumicchaṃ
sarabhasamupagantvā nāvikassāvadiṃsu,
sutisukhavacasā so sādhu vuttena tesaṃ
pamuditahadayo te nāvamāropayittha.

Khi ấy, các người thủ lãnh bà-la-môn với ý định đi đến xứ Sīhaḷa đã mau chóng đi đến nói với người lái tàu bằng giọng nói rõ ràng và mạch lạc, người ấy đã trở nên mừng rỡ với lời đề nghị của họ, và họ đã sắp xếp lên tàu.

44/- Jalanidhimabhirūḷhesvesu ādāya dhātuṃ
samabhavumupasantā lolakallolamālā,
samasurabhimanuñño uttaro vāyi vāto
vimalarucirasobhā sabbathā ’suṃ disāpi.

Khi những người ấy mang xá-lợi bước lên thuyền ở trên biển cả, những đợt sóng dữ dội đã trở nên bình lặng, làn gió phương bắc thổi nhè nhẹ thơm ngát gây niềm hưng phấn, khắp mọi phương đều trở nên tinh khiết, rực rỡ, và sáng lạng.

45/- Nabhasi asitasobhe venateyyo va nāvā
pabalapavanavegā santataṃ dhāvamānā,
nayanavisayabhāvātītatīrācalādiṃ
pavisi jaladhimajjhaṃ phenapupphābhikiṇṇaṃ.

Giống như loài chim Garuda ở trên bầu trời xanh ngát và xinh đẹp, chiếc thuyền đều đều lướt nhanh theo tốc độ của làn gió tiến vào giữa biển khơi có rải rắc những bông hoa bằng bọt nước, rồi bờ biển, núi non, v.v... chỉ là những hình ảnh thoáng qua trong ánh mắt.

46/- Atha abhavi samuddo bhīmasaṃvaṭṭavātā-
’bhihatasikharikūṭākāravīcippabandho,
savaṇabhiduraghorārāvaruddhantaḷikkho
bhayacakitamanussakkandito sabbarattiṃ.

Sau đó, biển cả đã trở nên liên tục có những đợt sóng cao như chóp núi được tạo ra bởi những cơn gió xoay chuyển kinh hồn, bầu trời trở nên ngột ngạt bởi những tiếng động ghê sợ khó nghe, và trọn đêm có tiếng khóc lóc của người đang bị chìm đắm trong cơn hãi sợ.

47/- Udayasikharisīsaṃ nūtanādiccabimbe
upagatavati tassā rattiyā accayamhi,
salilanidhijalaṃ taṃ santakallolamālaṃ
asitamaṇivicittaṃ koṭṭimaṃ vāvabhāsi.

Vào cuối đêm ấy, khi bóng mặt trời mới mọc đã vươn lên đỉnh ngọn núi ở hướng đông, mặt biển ấy với những đợt sóng trở nên bình lặng đã sáng ngời như là mặt sàn được sơn màu ngọc ma-ni xanh biếc.

48/- Atha vitataphaṇālī bhiṃsanā keci nāgā
surabhikusumahatthā keci dibbattabhāvā,
ruciramaṇipadīpe keci sandhārāyantā
nijasirasi karontā keci kaṇḍuppalāni.

Khi ấy, một số các con rồng dữ tợn phồng mang ra, một số mang hình dáng thiên thần tay cầm các hương thơm và bông hoa, một số đang cầm những cây đèn xinh đẹp bằng ngọc ma-ni, một số đang đội những bó sen xanh ở trên đầu của chính mình.

49/- Phuṭakumudakalāpe jattuneke vahantā
kanakakalasamālā ukkhipantā ca keci,
pavanacalitaketuggāhakā keci eke
rucirakanakacuṇṇāpuṇṇacaṅgoṭahatthā.

Một số đang mang ở trên vai những chùm hoa súng trắng nở rộ, một số đưa cao những lọ và tràng hoa bằng vàng, một số cầm giữ những lá cờ đung đưa theo gió, một số cầm ở tay những hòm chứa đầy bột phấn vàng xinh đẹp.

50/- Salalitaramaṇīyaṃ keci naccaṃ karontā
salayamadhuragītaṃ gāyamānā ’va keci,
pacuraturiyabhaṇḍe āhanantā ca eke
munivaratanudhātuṃ pūjituṃ uṭṭhahiṃsu.

Một số đang nhảy điệu múa sống động duyên dáng, một số đang ca bài hát du dương ngọt ngào, một số đang trình tấu nhiều loại nhạc cụ đã đứng lên để tôn vinh xá-lợi di thể cao quý của đấng Mâu Ni.

51/- Rucirakacakalāpā rājakaññāya tassā
munivaradasanaṃ taṃ ambaraṃ uppatitvā,

asitajaladagabbhā niggatevindulekhā,
ujurajatasalākāsannibhe muñci raṃsī.

Chiếc răng cao quý ấy của đấng Mâu Ni đã từ búi tóc xinh đẹp của nàng công chúa ấy bay lên không trung và đã phát ra các ánh hào quang tợ như những lưỡi gươm bằng bạc thẳng tắp trông giống như ánh trăng tỏa sáng từ bầu trời trong vắt.

52/- Atulitamanubhāvaṃ dhātuyā pekkhataṃ taṃ
pamuditahadayānaṃ taṅkhaṇe pannagānaṃ,
paṭiravabharitānaṃ sādhuvādādikānaṃ
gaganamapariyantaṃ v ’āsi vitthāritānaṃ.

Vào giây phút ấy, trong khi các con rồng với tâm trạng hoan hỷ đang chiêm ngưỡng năng lực vô biên ấy của xá-lợi, thì bầu trời vô tận đã có các tiếng nói như là “Sādhu, lành thay!” v.v... kèm theo tiếng vang dội lan rộng.

53/- Pavisi sugatadāṭhādhātu sā moḷigabbhaṃ
puna gaganatalamhā otaritvāna tassā,
phaṇadharanivahā te taṃ tariṃ vārayitvā
mahamakarumudāraṃ sattarattindivamhi.

Xá-lợi răng ấy của đấng Thiện Thệ đã từ bầu trời hạ xuống rồi ngự ở trên búi tóc của nàng ấy. Những con rồng ấy đã cản chiếc tàu ấy lại và đã tổ chức lễ hội trọng thể bảy ngày đêm.

54/- Acalamiva vimānaṃ antaḷikkhamhi nāvaṃ
gativirahitamambhorāsimajjhamhi disvā,
bhayavilulitacittā jampatī te samaggā
dasabalatanujaṃ taṃ iddhimantaṃ sariṃsu.

Nhận thấy chiếc thuyền không còn di chuyển ở giữa biển khơi y như là lầu đài bất động ở trên không trung, hai vợ chồng sanh tâm xao động vì hoảng sợ, rồi đồng lòng tưởng nhớ đến vị đệ tử có thần thông ấy của đấng Thập Lực.

55/- Sapadi munisuto so cittamesaṃ viditvā
nabhasi jaladharālī maddamāno ’bhigantvā,
vihagapatisarīraṃ māpayitvā mahantaṃ
bhayacakitabhujaṅge te palāpesi khippaṃ.

Vị đệ tử ấy của đấng Mâu Ni lập tức biết được tâm tư của họ liền đạp lên những đám mây ở trên không trung để tiến đến, rồi đã biến hóa thành lốt chim chúa khổng lồ, và đã mau chóng đuổi đi đám rồng đang bị hoảng hốt vì sợ hãi ấy.

56/- Itthaṃ buddhasute bhujaṅgajanitaṃ bhītiṃ sametvā gate
sā nāvā pavanā pakampitadhajā tuṅgaṃ taraṅgāvaliṃ,
bhindantī gativegasā puthutaraṃ meghāvalīsannibhaṃ
laṅkāpaṭṭanamotarittha sahasā therassa tass’ iddhiyā.

Như thế, sau khi đã xoa dịu nỗi sợ hãi do loài rồng gây ra, vị đệ tử của đức Phật đã ra đi. Chiếc thuyền ấy với ngọn cờ rung động bởi làn gió, trong lúc xẻ đôi các đợt sóng to giống như đám mây đen cực lớn bằng tốc độ di chuyển, đã mau chóng đến được bến tàu ở xứ Laṅkā nhờ vào năng lực của vị trưởng lão ấy.

Catuttho paricchedo.
(Đây là) chương thứ tư.

--ooOoo--


[1] Nay là thành phố Patnā.

[2] Danh hiệu của vị thần Kriṣṇa (đạo Hindu).

[3] Bốn vật dụng thiết yếu đối với đời sống: y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh.

[4] Tích chuyện này và các tích chuyện kế tiếp được trích dẫn từ Jātaka (Kinh Bổn Sanh).

[5] Năm hạng Ma Vương: Phiền não Ma Vương (kilesamāra), Ngũ uẩn Ma Vương (khandhamāra), Pháp hành Ma Vương (abhisaṅkhāramāra), Thiên Tử Ma Vương (devaputtamāra), Tử thần Ma Vương (maccumāra).

-ooOoo-

Đầu trang | Mục lục | 01 | 02 | 03

Chân thành cám ơn Tỳ khưu Indacanda đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 05-2005)


[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 11-05-2005