BuddhaSasana Home Page
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times font


Sư cô Kisagotami và một nhúm hột cải

Hòa thượng Piyadassi Mahathera
Phạm Kim Khánh dịch Việt


 

Tích chuyện Bà Kisagotami [1] là một trong những chuyện cảm động nhất được ghi nhận trong kinh điển. Bà sanh trưởng trong một gia đình nghèo tại thành Savatthi (Xá Vệ). Bà thuộc dòng Gotama, và do đó là họ hàng với Ðức Phật Gotama. Vì có thân hình mỏng manh yếu ớt nên người ta gọi bà là Kisa (có nghĩa là ốm gầy) Gotami.

Khi đến tuổi trưởng thành bà được gả cho người con trai của một thương gia, và đúng lúc, hạ sanh một trai. Than ôi, khi bé lớn khôn vừa đến tuổi bặp bẹ nói và biết chơi thì chết, làm cho mẹ vô cùng sầu thảm. Vì tình thương con vô bờ bến, đứa con duy nhất, bà không thể tin rằng con bà đã thở hơi thở cuối cùng, ôm con vào lòng chạy đôn chạy đáo tìm thuốc cứu mạng. Trong toàn thể vùng Savatthi không vị lương y nào có thể cứu sống một người chết.

Vì quá sầu muộn bà như người mất trí, bôn ba chạy từ nhà này sang nhà khác, khóc nức nở, van kêu: "Cúi xin quý ông quý bà rộng lòng cho tôi thuốc để cứu mạng con!". Tuy nhiên, dân chúng không thể thuyết phục bà rằng đứa bé đã chết. Nỗi khổ đau của bà quá sâu đậm để có thể nhận định đúng mức lời họ. Sau cùng có một vị trưởng lão sáng suốt thấu hiểu tâm trạng đáng thương của bà mẹ đang khóc sướt mướt, khuyên bà nên đến gặp Ðức Phật Tối Thượng, Ðức Bổn Sư Ðại Từ Ðại Bi, vào lúc bấy giờ đang cư ngụ tại Tịnh Xá Jetavana (Kỳ Viên) của Trưởng Giả Anathapindika (Cấp Cô Ðộc), tại Savatthi.

Bà lật đật tuôn chạy đến tịnh xá, đặt đứa con chết dưới chân Ðức Bổn Sư, đảnh lễ Ngài và thuật lại câu chuyện rất thương tâm có thể làm mềm dịu quả tim chai cứng nhất.

Ðấng Ðại Bi nhìn bà với cặp mắt dịu hiền và nhỏ nhẹ nói: "Này bà chị thân mến, có một món thuốc thần hiệu chắc chắn chữa được bịnh, Như Lai sẽ hàn gắn vết thương lòng của bà. Chỉ cần tìm cho Như Lai một nhúm hột cải xin từ bất cứ nhà nào trong thành này." Bà Gotami nghe những lời an ủi ấy thì lòng mừng vô hạn.

"Nhưng nên ghi nhận, này Gotami," Ðức Bổn Sư nói tiếp, "rằng phải xin hột cải ấy từ một nhà nào mà chưa từng bao giờ có người chết."

Tuy nhiên, vì quá đổi vui mừng bà Gotami không thấu hiểu ý nghĩa lời nói của Ðấng Toàn Giác. Với ước vọng cứu được đứa con yêu dấu, bà tức khắc vội vã chạy tìm hột cải. Tất cả mọi người trong thành đều tận tình thương hại bà và rất sẵn sàng cho hột cải mà bà hết lòng mong tìm. Nhưng than ôi! bà không thể tìm một nhà nào mà Mara, thần chết, chưa hề đến viếng.

Trời đã về chiều, mặt trời lặng lẽ, nhẹ nhàng lặn chìm trong vùng trời ở phương Tây, đàn chim vội vàng bay về ổ, và Bà Gotami cuối cùng nhận thức tánh cách phổ cập của hiện tượng chết. Chân lý phủ phàng rọi sáng cho bà như một ánh chớp, và bà thông hiểu rằng tất cả những gì yêu quý mến thương nhất trên đời đều vô thường. Tất cả mọi sum họp đều chấm dứt trong chia ly và đời sống suy tàn, biến tan vào cõi chết. Do đó bà đi ra ngoại ô thành, đặt con trong một bãi tha ma rồi về tịnh xá, vừa than:

"Ðây không phải là luật lệ của xóm làng, không phải luật của thành phố.
Không phải là luật chỉ để áp dụng riêng cho gia đình này hay gia đình khác;
Mà cho toàn thể thế gian - hơn thế nữa, cho tất cả chư thiên trên cảnh trời.
Ðây là định luật: tất cả đều vô thường" [2].

"Này Gotami, bà có tìm ra hột cải không?" Ðức Thế Tôn hỏi.

"Bạch Ðức Thế Tôn, con ra đi, bế trong lòng
Ðứa con càng lúc càng lạnh dần, đi từng nhà để hỏi xin -
'Từ nơi rừng rậm này đến thành phố -
Cúi xin ông bà ban ơn ban phước,
Cho tôi chút hạt cải', và mọi người ai có cũng đều cho.
Vì tất cả người nghèo đều thương hại người nghèo;
Nhưng khi con hỏi, nơi đây, tại nhà bạn,
Ðã từng có người chết hay không -
Chồng, vợ, hay con, hay người làm công? họ trả lời:
'Này bà chị! Bà hỏi gì? Người chết
Thì có thật nhiều, người sống chỉ một ít!'
Rồi trả lại hột cải với lời cảm tạ buồn thảm.
Và van xin ở nhà khác, nhưng người khác nói.
'Ðây là hột cải, nhưng người làm công trong nhà đã chết!
Ðây là hột cải, nhưng chồng tôi đã qua đời!'
'Ðây là hột cải, nhưng khi gieo mạ xong thì chồng tôi chết giữa mùa mưa và mùa gặt hái!'

Ôi, bạch Ðức Thế Tôn! Con không thể tìm đâu ra một nhà có hột cải mà không có người chết!
Do vậy mà con đành lìa bỏ đứa con - nó không còn bú
Cũng không cười - dưới một lùm cây, bên cạnh dòng suối,
Ðể rồi về đây chiêm ngưỡng dung nhan Ngài,
Ðảnh lễ dưới chân Ngài, và bạch hỏi van xin Ngài chỉ cho
Nơi nào có thể tìm ra hột cải ấy và không thấy thần chết,
Quả thật vậy, nếu giờ đây con của con không chết,
Như con sợ, và như người ta nói với con."

Bà Kisagotami bạch như vậy.

Ðức Bổn Sư dạy:

"Này bà tín nữ! Bà đã tìm ra,
Tìm được cái gì mà không ai tìm thấy -
Niềm an ủi đắng cay mà Như Lai tặng cho bà.
Ðứa con yêu dấu đã an giấc nghìn thu
Trong vòng tay của bà ngày hôm qua;
Hôm nay bà biết rằng toàn thể thế gian mênh mông này
Ðều than khóc nỗi khổ đau của họ cũng giống vậy." [3]

"Ðối với người mà tình thương đã gắn bó
Tập trung và bám chặt vào con cái và đàn gia súc,
Cái chết tràn đến như trận thủy lụt trong đêm tối,
Càn quét cuốn đi trọn cả làng đang ngon giấc." [4]

Những lời của Ðức Bổn Sư thấm sâu và tâm bà, lúc bấy giờ đã thấu triệt rằng vô thường là đặc tướng của tất cả mọi hiện tượng sinh tồn. Bà chứng đắc tầng thánh đầu tiên [sotapanna, nhập lưu) và xin xuất gia, gia nhập vào Giáo Hội Tỳ Khưu Ni.

Sau đó không bao lâu, nhờ nghe những thời thuyết giảng của Ðấng Bổn Sư Ðại Từ Ðại Bi, và nhờ chuyên cần hành thiền, bà tiến đến mức tuyệt đỉnh thanh tịnh, tầng thánh cuối cùng, vượt ra khỏi mọi bợn nhơ của đời sống. Về sau, nhớ lại những thành tựu cao cả đã đạt, bà nói lên một số kệ ngôn mà dưới đây xin ghi lại hai câu cuối cùng:

"Hoan hỷ thay! Ta đã dấn bước
Trải qua con đường Thánh Thiện, Bát Chánh Ðạo
Thẳng tiến đến trạng thái cao siêu.
Ta đã chứng ngộ Niết Bàn, và nhìn vào
Gương sáng của Giáo Pháp thiêng liêng.
Ta, chí đến ta, vết thương đau khổ cũng được hàn gắn,
Ðã đặt xuống gánh nặng, nhiệm vụ đã viên mãn hoàn thành,
Tâm ta đã hoàn toàn giải thoát,
Ta, sư cô Kisagotami, đã tuyên ngôn điều này!" [5].

Hòa thượng Piyadassi Mahathera
Phạm Kim Khánh dịch Việt

Chú thích:

[1] Paramatthadipani, Chú Giải Bộ Therigatha, Trưởng Lão Ni Kệ.
[2] Psalms of the Sisters, trang 107.
[3] The Light of Asia.
[4] Dhammapada, Kinh Pháp Cú, câu 287. Psalms of the Sisters trang 107.
[5] Psalms of the Sisters, trang 109.


Trích từ quyển "Phật Giáo, Nhìn Toàn Diện" của dịch giả Phạm Kim Khánh, Thích Ca Thiền Viện, California, Hoa Kỳ, 1995 (Nguyên tác: "The Spectrum of Buddhism", tác giả Piyadassi Mahathera).


Source: Quảng-Ðức web page, https://www.eisa.net.au/~quangduc/ ,
computer typesetting by Diệu Anh Quỳnh Trâm.


[Trở về trang Thư Mục]